Thứ Tư, 16 tháng 7, 2014

Học Thuyết BIOCENTRISM




Học Thuyết BIOCENTRISM

(triết lý lấy sự sống làm tâm điểm)

---

Xuất hiện vào những năm đầu thế kỷ 21 (2007) bởi bác sỹ Robert Lanza

Wiki: http://en.wikipedia.org/wiki/Robert_Lanz
Biocentrism cho rằng các ngành vật lý học dùng để tìm hiểu thế giới đã thực sự đi vào bế tắc! Muốn hiểu được sự thực về thế giới này, thì phải rẽ sang một con đường mới hơn, đó là lấy việc nghiên cứu "sự sống và ý thức" làm khoa học căn bản và nền tảng cho việc thấu hiểu thế giới này!
Vì sao?

Vì chính sự sống và ý thức (life and consciousness) đã dựng nên thế giới này chứ không phải như những quan điểm củ, cho rằng vũ trụ vật chất có trước rồi sự sống có sau! Điểm tương đồng của Biocentrism với các tôn giáo ở Ấn Độ là:
Con người không bao giờ thực sự chết hẳn (vì linh hồn là bất tử)Đa số con người thường tin rằng, ý thức của mình xuất phát từ chính cơ thể của mình. Như vậy, khi cơ thể tan hoại thì ý thức sớm muộn gì cũng kết thúc và biến mất!

Nhưng theo Biocentrism....- Ý thức là một dạng tồn tại độc lập
- Nếu cơ thể chỉ là bộ phận trung gian tiếp nhận, để ý thức có thể biểu lộ, thì ý thức sẽ không bao giờ chết hay biến mất, giống một cái cable box, nghĩa là nó nhận tin hiệu từ vệ tinh trước rồi mới phát tín hiệu này đi

Biocentrism cho rằng ý thức (consciousness) tồn tại bên ngoài không gian và thời gian. Ý thức vừa ở trong cơ thể vừa ở bên ngoài (ở cả những thế giới khác). Ý thức không tồn tại ở một khu vực nhất định, giống như đối với vật chất lượng tử ta không thể xác định được vị trí của chúng!
Lanzer tin rằng có nhiều thế giới cùng tồn tại song song. Cơ thể có thể chết ở thế giới này, nhưng ở thế giới khác, ý thức của cơ thể vừa chết lại được chuyển di và trình hiện trong một cơ thể khác!"

Chủ Nhật, 4 tháng 5, 2014

Trí Tuệ Của Tế Bào



Dịch bởi Nup Hero, Book Hunter Club

Nguồn từ Bruce Lipton blog

Trí tuệ của tế bào” là cuốn sách của Bruce Lipton, một trong những nhà khoa học tiên phong trong một lĩnh vực sinh học mới (epigenetics); nói rằng chúng ta không phải là tù nhân của bộ gene có trong người chúng ta, rằng chúng ta không phải là một cỗ máy sinh học chỉ biết tuân theo các quá trình sinh hóa của cơ thể. Chúng ta có thể ảnh hưởng đến các quá trình đó, hay thậm chí là thay đổi các yếu tố sinh học của cơ thể. Đúng như câu nói cổ xưa quen thuộc “Tri thức là sức mạnh”, nếu chúng ta bắt đầu tìm hiểu điều gì thực sự diễn ra trong cơ thể chúng ta, ta bắt đầu có một sức mạnh tự thân để làm theo những điều ta mong muốn.

Link Amazon : http://www.amazon.com/The-Wisdom-Your-Cells-Beliefs/dp/1591795222




Khám phá thế giới bên trong cơ thể


Lần đầu tiên tôi biết đến sinh học là khi học lớp 2. Thầy giáo có mang đến một chiếc kính hiển vi, và đó là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy các tế bào, cách chúng sống, sinh sôi và phát triển. Đó là một thế giới kỳ diệu, cho tôi thấy nhiều hiểu biết đáng giá. Sau này, bằng kính hiển vi điện tử, tôi không chỉ quan sát được bên ngoài của tế bào, mà còn thấy được cấu trúc, chức năng và cách tổ chức vận hành của chúng. Nhiều người trong số chúng ta hay mơ ước về việc bay lên vũ trụ, khám phá không gian bên ngoài trái đất; nhưng tôi thì lại thích khám phá thế giới bên trong các tế bào; để thấy được những chân trời mới, về bản chất của tế bào, của con người, và sự sống.

Năm 1968, tôi bắt đầu nghiên cứu về cách thức nhân bản tế bào gốc, dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Irv Konigsberg. Tế bào gốc mà tôi nghiên cứu có tên myoblast. Myo có nghĩa là cơ bắp, còn blast có nghĩa là nguồn gốc. Khi tôi đưa tế bào vào nơi thuận lợi cho việc phát triển, tôi đã nhận thấy rằng hướng phát triển của chúng phụ thuộc rất lớn vào điều kiện môi trường. Trong một lần thử thay đổi các điều kiện như vậy, cái tôi nhận được là các tế bào xương, thay vì mô cơ bắp; thậm chí có thể thành mô mỡ. Đây là một phát hiện vô cùng thú vị, vì trước nay giới khoa học vẫn cho rằng cách tế bào phát triển được quy định bởi bộ gene của chúng ta, chứ không phải môi trường tế bào đó sống.

Trong quá trình làm thí nghiệm, tôi cũng bắt đầu giảng dạy tại trường đại học Y khoa Wisconsin. Các đồng nghiệp của tôi, hiển nhiên là không đồng tình với những kết luận đó. Mọi nhà khoa học đều ủng hộ dự án giải mã bộ gene người, và họ tin vào câu chuyện bộ gene của chúng ta kiểm soát mọi thứ. Họ nhìn công trình của tôi chỉ như một tình huống ngoại lệ.

Bạn là một cộng đồng của 50 nghìn tỷ tế bào


Những nghiên cứu đó khiến tôi thay đổi quan niệm về bản chất của sự sống. Theo xã hội, bạn chỉ là một cá thể bình thường, nhưng thực sự bên trong bạn là một thế giới của 50 nghìn tỷ tế bào đang sống, mà mỗi tế bào đó cũng là một cá thế riêng biệt, có cuộc sống riêng, chức năng riêng và cũng tương tác, trao đổi với những tế bào khác. Nếu tôi thu nhỏ bạn tới kích cỡ tế bào, và đưa bạn vào chính cơ thể của bạn, bạn sẽ nhận ra rằng bên trong bạn là một đô thị rất bận rộn và tấp nập. Hiểu biết này là quan trọng, khi bạn nhận ra rằng cơ thể bạn cũng là một cộng động, một xã hội hay quốc gia thu nhỏ; và một cơ thể khỏe mạnh là một nơi các tế bào chung sống hài hòa với nhau; còn cơ thể ốm yếu, bệnh tật là một nơi các tế bào thiếu đi sự hài hòa.

Có một sự thật khác, đó là bất kỳ tế bào nào cũng mang đầy đủ chức năng của mọi tế bào khác trong cơ thể. Trong cơ thể con người, chúng ta có rất nhiều hệ thống : hệ tiêu hóa, hệ hô hấp, hệ bài tiết, xương và cơ, nội tiết, sinh dục, thần kinh và miễn dịch. Nhưng tất cả các chức năng đó đều có thể tìm thấy trong mọi tế bào ở mọi bộ phận của cơ thể. Đây là một đặc tính vô cùng hữu dụng với các nhà sinh học, vì họ có thể chỉ nghiên cứu cách tế bào vận hành rồi suy đoán về bản chất của cơ thể.

Nhưng ở trường đại học, điều chúng ta được (phải) dạy đó là cơ thể con người là một cỗ máy sinh học điều khiển bởi các gene. Do đó khi bệnh nhân đến tìm gặp bác sĩ, người ta sẽ nghĩ rằng bệnh nhân này có gì đó không ổn với với quá trình sinh hóa hoặc gene; và chỉ cần thay đổi chúng là bệnh nhân có thể khỏe lại. Cuối cùng điều tôi nhận thấy rằng, tôi phải rời trường đại học, vì mâu thuẫn giữa những khám phá của riêng mình và những điều phải dạy cho sinh viên của mình.

Một hiểu biết mới về khoa học


Khi rời trường đại học, tôi có cơ hội đọc về môn vật lý, và tìm được những thông tin trái ngược với những điều tôi được dạy về môn này. Trong môn vật lý lượng tử, một nhánh rất mới của vật lý, có những thứ rất khác với những điều ta được dạy, vốn dựa trên nền tảng của vật lý Newton.

Trước khi khoa học như ngày nay ra đời, khoa học chỉ là một phần mở rộng của nhà thờ với tên gọi thần học về các vấn đề tự nhiên; vốn nói rằng cách thức bàn tay của Chúa kiến tạo và vận hành thế giới ra sao, hình ảnh của Chúa được phản ánh trong tự nhiên/thực tại ta sống thế nào. Thần học về tự nhiên dạy ta về một thứ : hiểu bản chất của môi trường sống, để từ đó có thể sống hài hòa với nó, đồng nghĩa với việc sống trong hài hòa với các vị thần và Chúa trời. Nó cho rằng con người, tự nhiên và Chúa trời có một mối liên kết rất chặt chẽ không thể tách rời.

Tuy vậy, với quyền lực của mình, nhà thờ hay cấm đoán và ngăn chặn những hiểu biết trái ngược với hiểu biết của họ. Điều này gây nên rất nhiều sự mâu thuẫn và chống đối với nhà thờ Công giáo Roma; và cuối cùng dẫn đến một phong trào Cải cách nhà thờ và ra đời của Đạo Tin Lành do một mục sư có tên Martin Luther lãnh đạo đầu thế kỷ 16. Sau phong trào Cải cách đó, người dân bắt đầu có cơ hội được nghi ngờ những niềm tin xưa cũ về thế giới và vũ trụ; và khoa học bắt đầu hình thành và phát triển đúng theo tinh thần khoa học hiện đại của ngày nay. Những nhà khoa học thời đó như Corpernicus, Galileo, Isaac Newton… là những người tiên phong đặt nền móng cho khoa học hiện đại. Tuy vậy, Isaac Newton cho rằng mọi thứ đều có thể dự đoán được, và cơ học Newton cũng cho rằng vũ trụ giống như một cỗ máy làm bằng vật chất; nếu bạn hiểu được bản chất của các vật chất hình thành nên cỗ máy, bạn sẽ hiểu bản chất của tự nhiên. Tuy nhiên, với tư duy đả phá, phủ nhận và hoài nghi những giá trị xưa cũ đó; và ưa chuộng thực nghiệm, vật chất; mục đích của khoa học hiện đại dần theo hướng tìm cách kiểm soát và chế ngự tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ cho các nhu cầu của con người; điều vốn trái ngược hoàn toàn với tôn chỉ của thần học về tự nhiên trước đó.

Sinh học cũng chẳng tránh khỏi ảnh hưởng của tư tưởng khống chế tự nhiên đó. Một câu hỏi quan trọng được đặt ra đó là : điều gì khống chế các đặc tính mà chúng ta thể hiện? Theo quan điểm của vật lý Newton, bạn cần chia nhỏ vấn đề đó ra thành nhiều phần, và tìm hiểu đặc điểm của từng phần đó. Sau đó ráp nối các đặc điểm của các bộ phận với nhau, và chúng ta có cái ta cần. Charles Darwin cho rằng các đặc điểm của con người là do thừa hưởng của cha mẹ. Sinh học bắt đầu nghiên cứu về việc phân chia của tế bào từ những năm đầu thế kỷ 20, và họ đã phát hiện ra một thành tố quan trọng của việc phân bào : các nhiễm sắc thể. Tuy vậy, cũng phải đến năm 1944, con người mới tìm ra được điều quyết định cuối cùng mọi đặc tính của con người : DNA. Trên DNA chứa rất nhiều đoạn gene, mà mỗi đoạn đặc trưng cho một loại protein trong tổng số hơn 100 nghìn loại protein khác nhau tạo nên cơ thể của chúng ta. Một bài báo đăng trên tờ New York Times mô tả khám phá trên của Watson và Crick với tiêu đề “Bí mật của sự sống đã được khám phá”. Và bắt đầu từ đó, mối quan tâm lớn nhất của sinh học nói chung đều xoay quanh gene. Các nhà khoa học lại càng có thêm động lực để theo đuổi việc giải mã gene người, khi họ nhận thấy rằng gene không chỉ quy định hình dạng cơ thể của con người, mà nó còn có thể ảnh hưởng đến hành vi và cảm xúc của chúng ta; hay nói cách khác là mọi thứ của chúng ta. Cuối cùng, chúng ta là những cỗ máy sinh học được quy định bởi gene có trong DNA của mình


Chúng ta là tù nhân của sự di truyền?


Vậy cuối cùng, điều gì kiểm soát DNA? Các thí nghiệm đã chỉ ra rằng DNA tự kiểm soát quá trình sao chép của chính mình. Thật là một vòng luẩn quẩn đầy mỉa mai; và bằng chứng này càng ủng hộ thêm cho quan điểm số phận của chúng ta bị kiểm soát bởi DNA mà chúng ta có được ngay từ khi sinh ra. Bạn là tù nhân của sự di truyền. Ví dụ, các nhà khoa học quan sát một nhóm người, tính điểm cho mỗi người về mức độ hạnh phúc trong cuộc sống, và rồi cố gắng tìm ra xem sự khác biệt về gene giữa nhóm người hạnh phúc nhất và ít hạnh phúc nhất. Hẳn nhiên, họ sẽ tìm ra sự sai khác ở một nhóm gene, và báo chí sẽ ngay lập tức đưa tin rằng “Các nhà khoa học đã tìm ra gene khiến con người hạnh phúc”. Đó là cách thức phổ biến để các nhà khoa học tìm ra gene quyết định rất nhiều khía cạnh trong cuộc sống con người : khả năng bị trầm cảm, khả năng bị ung thư, khả năng hạnh phúc… Bạn có thể nghĩ rằng “Thật đau khổ, theo nghiên cứu đó, gene hạnh phúc đó của tôi chẳng tốt đẹp gì, có lẽ tôi sẽ phải sống buồn rầu suốt phần đời còn lại”. Đó chính là cách mà chúng ta được dạy ở trường y khoa, rằng con người thật sự không có chút hy vọng nào để có thể cải thiện hay thay đổi gene (số phận) của mình. Và hệ quả là họ bắt đầu trở nên thiếu trách nhiệm với bản thân “Thưa sếp, sếp hay bảo rằng tính tôi lười biếng, nhưng tôi muốn cho sếp biết rằng cha của tôi cũng vậy. Sếp còn kỳ vọng rằng tôi có thể khác sao? Gene của tôi khiến tôi lười biếng. Tôi chẳng thể làm gì để thay đổi nó được.”

Dự án giải mã bộ gene người


Ý tưởng cơ bản của dự án rất đơn giản : nhằm xác định tất cả gene mà mỗi con người chúng ta có, nhằm cung cấp những hiểu biết về gene và những bệnh liên quan đến gene. Ban đầu tôi tin vào ý nghĩa nhân văn của dự án, nhưng sau đó, qua Paul Silverman, một kiến trúc sư trưởng của dự án, tôi mới thực sự biết bản chất của dự án này. Thật đơn giản, vì chúng ta có khoảng hơn 100 nghìn loại protein khác nhau, nên có lẽ chúng ta sẽ có khoảng hơn 100 nghìn gene; với ý tưởng rằng mỗi gene chịu trách nhiệm sản sinh ra một loại protein; cộng với một số lượng gene kiểm soát các gene khác. Dự án này thực chất được đầu tư từ một quỹ mạo hiểm. Các nhà đầu tư này nghĩ rằng, với việc xác định được hơn 100 nghìn gene, họ có thể đăng ký sáng chế bảo hộ thông tin đó, và bán cho các hãng dược phẩm để sản xuất ra các loại thuốc chữa các bệnh về gene cho con người. Thực chất, dự án này không nhằm mục đích nhân văn nào cả, mà chỉ là một công việc kinh doanh thuần túy, hơn nữa là một dự án siêu lợi nhuận.

Các nhà khoa học đã biết rằng các sinh vật có mức độ tiến hóa càng cao, DNA của chúng càng chứa nhiều gene. Họ nghĩ rằng DNA của các sinh vật đơn bào đơn giản sẽ có khoảng vài nghìn gene, còn con người có khoảng 150 nghìn, tương đương với 150 nghìn loại thuốc mới. Dự án giải mã bộ gene người được bắt đầu từ năm 1987, và đã chứng minh được một sự thật rằng khi mọi cái đầu biết hợp sức với nhau, chúng ta có thể tạo ra những điều kỳ diệu. Chỉ trong vòng 14 năm, các nhà khoa học đã giải mã hoàn chỉnh bộ gene người.

Nhưng người tính không bằng trời tính. Họ bắt đầu bằng việc nghiên cứu DNA của một loại ký sinh trùng vô cùng nhỏ. Đây là đối tượng nghiên cứu ưa thích của các nhà sinh vật học vì chúng phát triển rất nhanh với số lượng lớn. Họ thấy rằng sinh vật này có khoảng 24 nghìn gene. Họ tiếp tục tiến hành thí nghiệm với ruồi giấm, một sinh vật nghiên cứu ưa thích khác. Và ngạc nhiên thay, ruồi giấm chỉ có 18 nghìn gene trong DNA. Một con ký sinh trùng bé xíu có đến 24 nghìn gene mà một cỗ máy biết bay lại chỉ có 18 nghìn? Họ không hiểu chuyện gì đang diễn ra, nhưng vẫn tiếp tục dự án với việc nghiên cứu bộ gene người.

Kết quả được công bố năm 2001, và thực sự là một cú sốc lớn : DNA của người chỉ chứa khoảng 25 nghìn gene! Sốc lớn đến nỗi các nhà khoa học đều không nói đến nó nữa. Mặc cho truyền thông đại chúng trên khắp thế giới đều tỏ ra phấn khích với khám phá mang tính lịch sử này nhưng trên khắp các tạp chí khoa học chuyên ngành, chẳng ai đặt câu hỏi về việc hơn 100 nghìn gene còn lại ở đâu. Khi biết rằng chỉ có 25 nghìn gene có thể đảm đương được toàn bộ quá trình vận hành phức tạp của con người, đó thực sự là một thông tin đảo lộn toàn bộ quan điểm của giới sinh học.

Vì sao sự sụp đổ quan điểm này lại quan trọng? Vì nếu khoa học được vận hành dựa trên những quan điểm sai lầm, sẽ thật là thảm họa khi áp dụng nó vào y khoa. Liệu pháp đối chứng, một cách thức chữa bệnh rất phổ thông ở các nước phương Tây, đã được báo cáo là nguyên nhân chính gây chết người do y khoa tại Mỹ. và cũng gây ra đến 20% cái chết do y khoa tại Úc. Trên tập san của Hiệp hội y tế Mỹ, bác sĩ Barbara Starfield đã thống kê rằng nguyên nhân tử vong do y khoa đứng thứ 3 trong mọi nguyên nhân gây chết người tại Mỹ, với khoảng 750 nghìn chết mỗi năm. Đó thực sự là một con số đáng báo động.

Tôi rời trường đại học năm 1980, 7 năm trước khi dự án giải mã bộ gene người bắt đầu. Bằng những kinh nghiệm thực tế của mình, tôi luôn tìn rằng môi trường và chủ thể có thể biến đổi được gene và các tế bào của cơ thể. Tôi bắt đầu tìm hiểu về ngành nhận thức và khoa học não bộ. Tôi bắt đầu khám phá ra được rằng, DNA không phải là thứ kiểm soát các tế báo, vậy thì thực sự “bộ não” của các tế bào nằm ở đâu?






Mọi sinh vật là một chiếc máy tính


Các nghiên cứu sinh học mới nhất cho biết rằng, bộ não của các tế bào nằm ngay ở bộ da của chúng, tức màng tế bào. Tôi bắt đầu nhận thấy rằng một tế bào giống như một chiếc máy tính, mà nhân của chúng chính là một ổ đĩa cứng. Gene là các chương trình được nạp sẵn trong ổ cứng. Chúng có góp phần không nhỏ trong việc vận hành, điều phối mọi hoạt động của tế bào; nhưng chính những thông tin được nhập vào từ môi trường mới là thứ điều khiển cách sinh tồn của tế bào. Màng tế bào chính là nơi tiếp nhận những thông tin, tín hiệu từ môi trường; do đó chính nó là bộ vi xử lý của tế bào. Do DNA ở trong nhân (ổ cứng) của mỗi tế bào đều lưu trữ mọi thông tin, chức năng của các tế bào khác thông qua 25 nghìn gene, hay 25 nghìn đoạn chương trình; cho nên các tế bào gốc đều có tiềm năng để biến đổi thành mọi loại tế bào khác trong cơ thể mà chúng muốn. Điều kiện để tác động đến tiềm năng, quá trình phát triển đó chính là điều kiện môi trường; tùy vào môi trường yêu cầu thế nào, cần loại tế bào nào thì tế bào gốc có thể biến đổi thành kiểu tế bào đó. Nói cách khác, chính chúng ta là người lập trình nên các tế bào của chúng ta; thông qua những trải nghiệm sống, suy nghĩ, cảm xúc…

Với tư cách là một người theo khoa học từ sớm, trước đây tôi thường không tin sự tồn tại của những trải nghiệm tâm linh. Nhưng khi quan sát cách các tế bào sinh ra, lớn lên và chết đi, tôi bỗng nhận ra rằng; sự chết đi thường xuyên của tế bào cũng chẳng phải mất mát gì. Điều thực sự làm nên bản thân tôi, khiến tôi khác biệt với tất cả con người khác không phải thứ nằm bên trong tế bào, nằm bên trong nhân, bên trong DNA hay gene; mà lại là một yếu tố nằm ở bên ngoài. Dù cho một tế bào có chết đi, thông tin đó, tính cách đó, sự khác biệt đó vẫn được bảo tồn nguyên vẹn và được truyền qua các tế bào khác đảm nhiệm. Bỗng nhiên, cảm giác sợ cái chết của tôi tan biến. Đó là điều tôi trải nghiệm 25 năm trước, và đó thực sự là một trải nghiệm tâm linh vô cùng tuyệt vời.


Nhận thức : Sức mạnh mới của sinh học


Chúng ta thu nhận thông tin từ môi trường, và điều chỉnh sinh học của cơ thể; nhưng không phải nhận thức nào chúng ta có cũng là đúng đắn. Nhận thức sai lầm sẽ khiến chúng ta có những điều chỉnh sai lầm lên cơ thể, thậm chí hủy hoại cơ thể. Khi đã biết được rằng, sinh học chỉ là một cơ thể hữu cơ chờ lệnh phản ứng đến từ tâm trí của chúng ta; nếu như cuộc sống không diễn ra thuận lợi, thay vì tìm cách điều chỉnh gene, hay điều chỉnh tâm trí và thái độ sống. Chúng ta có thể kiểm soát cuộc sống của chính mình bằng cách kiểm soát nhận thức sống của mình.

Những hiểu biết khoa học của chúng ta về sự sống, thực chất lại là sai lầm. Chúng ta đang hiểu sai về mối liên kết giữa chúng ta với hành tinh này, với tự nhiên và môi trường sống. Cũng giống như việc nhận thức sai lầm có thể hủy hoại cơ thể sống, nhân thức sai lầm về sự sống cũng đang hủy hoại thứ mang lại cho chúng ta sự sống : môi trường. Con người là một thành phần của tự nhiên, và cần sống hài hòa với tự nhiên. Việc tự cho mình là ưu việt hơn, thông qua học thuyết Darwin, cho rằng chúng ta là loài vật tiến hóa nhất, được chọn lọc sinh tồn khắt khe nhất và có cái nhìn muốn áp chế tự nhiên, coi mọi thứ trên đời sinh ra là nhằm để cho con người sử dụng chỉ dẫn đến một con đường tất yếu đó là tự hủy hoại.


Tương lai của y học


Mọi thứ trong vũ trụ hiện nay đã được biết làm bằng năng lượng, vật chất chỉ là một hình thái tồn tại ở dạng vật lý và rắn chắc. Năng lượng không ngừng trao đổi và tương tác lẫn nhau. Mỗi khi bạn tương tác với môi trường, bạn đang vừa nhận và truyền năng lượng cùng một lúc. Năng lượng trong cơ thể bạn là phản chiếu của các năng lượng dao động (vibration) trong môi trường xung quanh bạn. Bất kỳ một sinh vật sống nào, dù là nhỏ nhất cũng đều rất nhạy cảm với những dao động năng lượng từ môi trường. Tốt nhất bạn nên tìm đến những nơi khiến bạn cảm thấy an toàn, được phát triển và yêu thương và tránh xa những nơi ảnh hưởng xấu hay không chào mời sự tồn tại của bạn.

Khi chúng ta không chú ý đến những dao động năng lượng, chúng ta đang bỏ quên những tín hiệu giá trị từ môi trường sống. Hiểu được rằng mọi năng lượng đều có dính líu (entangled) và tương tác với nhau sẽ khiến bạn chú ý hơn đến những động lực vô hình có khả năng ảnh hưởng đến cuộc sống của bạn.

Thông thường, bác sĩ hay dùng thuốc và một số phương pháp theo dõi (ví dụ mammogram) để xem những chuyển biến trong cơ thể bệnh nhân hay theo dõi những dấu hiệu của bệnh ung thư. Thứ mà bạn nhìn thấy trên các giản đồ chính là thể hiện của kiểu năng lượng của tế bào ung thư đó. Các bác sĩ thông thường, vốn không tin vào câu chuyện năng lượng sẽ tìm cách loại bỏ các tế bào ung thư đó, thay vì tìm cách khiến các tế bào đó trở về trạng thái năng lượng bình thường. Đó là những phương pháp truyền năng lượng bằng tiếp xúc cơ thể hay thông qua tay mà chúng ta vẫn biết. Đó sẽ là tương lai của y học, nhưng chưa phải ngay lúc này.

Những hiểu biết mới về cơ học lượng tử có thể khiến con người thay đổi cách nhìn về y học hiện tại. Bằng những công trình khoa học của mình, họ đã chứng minh những dao động năng lượng vô hình có hiệu quả hơn gấp 100 lần so với các loại thuốc hiện nay, trong việc mang và truyền thông tin đến các tế bào; nhằm khiến chúng tự điều chỉnh trạng thái để quay về trạng thái năng lượng bình thường. Trong thế giới cũ, chúng ta quan tâm đến vật chất, chúng ta dung phương pháp bẻ gẫy, chia nhỏ tự nhiên (reductionism) để hiểu về chúng. Nhưng trong thế giới mới, chúng ta cần quan tâm nhiều hơn đến năng lượng, và phải dùng nhiều hơn đến tư duy hệ thống và tổng thể (holism) để hiểu được vấn đề : rằng mọi thứ đều kết nối với nhau.

Và cuối cùng, đây là định nghĩa của tôi về môi trường :

Nó là thứ bao gồm từ bản thân bạn đến rìa của vũ trụ, từ những thứ gần gũi thân thuộc hang ngày đến những hành tinh, mặt trời và mọi thứ diễn ra trong dải ngân hà của chúng ta. Chúng ta đều mà một bộ phận trong các trường bất tận đó.


Thứ Bảy, 3 tháng 5, 2014

Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm

BS Nguyễn Văn Tuấn


Trịnh Công Sơn có viết một câu nhạc rất thơ mà cũng rất triết lí nhà Phật, “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi”, như để nhắc nhở sự mong manh, tính phi vĩnh cửu của một đời người. Nhưng lời nhạc và ý nghĩa của nó còn gián tiếp (hay chủ ý?) ví von một chân lí khoa học về sự cấu trúc cơ bản của cơ thể con người. Quả vậy, theo thuyết của sinh học phân tử (molecular biology), đơn vị cơ bản nhất của một sinh vật nói chung, hay con người nói riêng là tế bào (cells). Trong cơ thể con người được cấu tạo bằng hàng tỷ tỷ tế bào. Mỗi con người chúng ta được hình thành bắt đầu từ chỉ một tế bào. Tế bào này cứ phân chia liên tục và sản sinh ra nhiều tế bào mới để cấu tạo thành một con người “trưởng thành”.

Trong giai đoạn sớm của nền y học, kể cả cho đến những thập niên đầu thế kỷ XX, việc chữa trị bệnh hầu như chỉ tập trung vào chữa trị ở cấp “vĩ mô”, tức là các phương thức trị bệnh chủ yếu dựa trên cơ chế bệnh sinh và bệnh nguyên. Trừ nhóm bệnh nhiễm khuẩn là điều trị tương đối có kết quả, còn lại hầu như chỉ giải quyết được tức thời giảm triệu chứng, hoặc kéo dài sự chịu đựng của cơ thể mà không thể tiệt căn. Ngay cả những bệnh nhiễm trùng thì chữa khỏi, thế nhưng những biến chứng hay di chứng của bệnh để lại lại là một chuyện nan giải cho cả bệnh nhân và thầy thuốc, điển hình như biến chứng thần kinh, hoặc các biến chứng tim của bệnh Thấp (Rheumatic fever). Các điều trị nếu có thể hoặc bảo tồn hoặc thay thế nhưng hầu như không thể nào gọi là chữa khỏi được. Vì thế, không ai ngạc nhiên khi thấy hầu hết các thuật chữa trị hiện nay chỉ đem lại hiệu quả cho khoảng 60 phần trăm bệnh nhân, và trong nhiều trường hợp bệnh nhân lại chịu phản ứng phụ có hại cho sức khoẻ. Trong nhiều thập niên gần đây, nghiên cứu y khoa đã bắt đầu chuyển sang một phương hướng mới: đi tìm thuật chữa trị mới sao cho có thể ứng dụng cho từng cá nhân bệnh nhân. Đó cũng là nhờ tiến bộ của ngành sinh học phân tử, nghiên cứu về tế bào và cấu trúc di truyền của tế bào [1].

Dưới giác độ di truyền của tế bào, gien có chức năng gửi các tín hiệu hóa học đi đến tất cả các nơi trong cơ thể. Những tín hiệu này có chứa đầy đủ các thông tin, các chỉ thị cụ thể cho các cơ quan trong cơ thể ta phải hoạt động ra sao. Nếu những gien trong cơ thể hoạt động “bình thường”, và sản phẩm hay tín hiệu của gien được chuyển giao một cách thích hợp thì cơ thể con người không có vấn đề; nhưng nếu trong quá trình hoạt động của gien có sự cố thì hậu quả là cơ thể sẽ mất thăng bằng và dẫn đến bệnh tật cho con người.
Do đó, có thể nói một cách vắn tắt rằng đa số các bệnh tật, dù là thể xác hay tinh thần, đều gần như có thể bắt nguồn từ những trục trặc của tế bào, hoặc gien. Nhưng hầu như tất cả các thuật chữa trị bệnh tật hiện nay lại có tính cách gián tiếp, và ước chừng. Giải phẫu, hay dùng dược phẩm đều chỉ là những phương pháp trợ tiếp, cầm chừng, và chỉ tấn công bề ngoài của căn bệnh, chứ chưa tiến sâu vào cơ chế hoạt động của tế bào. Ngoài ra, tất cả các thuật chữa trị này đều dựa vào số đông chứ không dựa vào cá nhân. Chẳng hạn như thuốc Alendronate, thử nghiệm cho thấy có hiệu quả cho số đông của một nhóm bệnh nhân, và kết quả này được khái quát hóa cho hàng loạt bệnh nhân khác.

Vì tế bào là đơn vị cơ bản nhất của con người, và mỗi con người là một cá thể độc đáo (trên phương diện sinh học, không ai giống ai), nên việc chữa trị bệnh tật bằng cách thay thế các tế bào bị hỏng bằng các tế bào lành mạnh là một phương pháp đang được giới khoa học chú ý nhiều nhất hiện nay. Ngoài ra, việc thay thế những gien bị đột biến tai hại bằng những gien tốt cũng là một phương hướng chữa trị đang được ứng dụng cho một số bệnh. Chữa trị bằng tế bào (Cell therapy) hay bằng gien (Gene therapy), nếu không là một hy vọng sau cùng, thì cũng là một phát triển quan trọng nhất trong hành trình chinh phục bệnh tật của con người.

Các tế bào và gien cũng biến chuyển theo quá trình trưởng thành và lão hóa của một con người. Một số bệnh như Parkinson, bệnh mất trí (Alzheimer), tiểu đường, v.v... thường tấn công vào người có tuổi, và cơ chế chính là do mất tế bào chuyên biệt, hay do tế bào bị hư hỏng. Một cách thay thế các tế bào bị hư hỏng hay đã mất này là bằng cách “trồng” hay “gầy giống” các tế bào mầm, mà tiếng Anh thường đề cập đến là stem cells.


Nguồn và loại tế bào mầm


Tế bào mầm, nói một cách ngắn gọn, là những tế bào có khả năng phân chia (differentiate) trong những chu kỳ không nhất định trong nuôi cấy và cho ra những tế bào chuyên dụng hoá (specialized cells). Để hiểu rõ nguồn gốc, công dụng, và ý nghĩa đạo đức của tế bào mầm, có lẽ cần phải điểm qua quá trình hình thành của một bào thai và những thuật ngữ dính dáng đến các tế bào.

• Sự phát triển của con người khởi đầu bằng chỉ một tế bào. Khi một tinh trùng thụ tinh với một trứng và tạo ra một tế bào đơn (zygote), và tế bào đơn này có tiềm năng hình thành nên một cơ thể sống hoàn chỉnh. Trứng được thụ tinh này gọi là tế bào toàn năng (totipotent cells). Như tên gọi, tế bào toàn năng ám chỉ tiềm năng của nó là toàn bộ, có thể phân chia thành bất cứ tế bào nào. 

• Vài giờ đầu sau khi thụ tinh, tế bào này phân chia thành những tế bào toàn năng đồng nhất như nhau. Điều này có nghĩa là một trong bất kỳ các tế bào nào trong những tế bào này, nếu đem đưa vào buồng tử cung của phụ nữ, đều có khả năng phát triển thành một bào thai. Trong thực tế, trường hợp sinh đôi đồng dạng xảy ra khi hai tế bào toàn năng tách ra và phát triển thành hai cá thể, thành hai con người giống nhau về cấu trúc di truyền. 

• Khoảng 4 ngày sau khi thụ tinh, và sau một vài chu kỳ phân chia của tế bào, các tế bào toàn năng này bắt đầu chuyên dụng hoá, hình thành một quả cầu rỗng do các tế bào xếp quanh, được gọi là túi phôi (blastocyst). Bên ngoài túi phôi là lớp tế bào; bên trong là một khối kết cụm các tế bào gọi là khối nội bào (inner cell mass). Lớp các tế bào bên ngoài sẽ hình thành rau thai và các mô hỗ trợ cần thiết cho quá trình phát triển của một bào thai (fetus) trong tử cung. Các tế bào trong khối nội mạc có thể chuyển hóa thành mọi loại tế bào làm nền tảng của cơ thể, và sẽ phát triển thành một cơ thể người. Tự nó, các tế bào nội mạc không thể hình thành nên một cơ thể sống được, vì nó không có rau thai cũng như các mô hỗ trợ cần thiết cho sự phát triển của thai trong tử cung như nêu trên. Các tế bào khối nội mạc này được gọi là các tế bào đa năng (pluripotent cells), vì khả năng của chúng có thể hình thành nên nhiều loại tế bào khác nhau của cơ thể trừ tất cả các loại tế bào cần thiết cho phát triển bào thai.


Do đó, tế bào toàn năng rất khác với tế bào đa năng. Tiềm năng phát triển của các tế bào đa năng không hoàn toàn, nhưng tiềm của tế bào toàn năng thì có thể vô tận. Tế bào đa năng không phải là phôi (embryo). Trong thực tế, nếu một tế bào khối nội mạc được cấy vào trong lòng tử cung phụ nữ, thì hẳn là nó sẽ không thể nào phát triển thành một bào thai được. Các tế bào mầm đa năng này tiếp tục chuyên dụng hoá thành các tế bào mầm chịu trách nhiệm tạo nên các tế bào có những chức năng đặc biệt. Chẳng hạn như tế bào mầm tạo huyết sẽ sản sinh ra hồng huyết cầu, bạch cầu, tiểu cầu; và các tế bào mầm da sẽ tạo nên các loại da khác nhau. Các tế bào mầm được chuyên dụng hoá hơn này gọi là các tế bào bội năng (multipotent).

Trong khi các tế bào mầm đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình phát triển của một con người trong giai đoạn “trứng nước”, thì các tế bào bội năng này cũng được tìm thấy trong cơ thể trẻ em và người trưởng thành. Trong các tế bào mầm được nghiên cứu nhiều nhất hiện nay là tế bào mầm dòng tạo huyết. Các tế bào mầm tạo huyết hiện diện trong tuỷ xương của mỗi cơ thể trẻ em và người lớn, và thực tế, có thể hiện diện với số lượng rất nhỏ trong dòng máu tuần hoàn. Các tế bào mầm tạo huyết này đóng một vai trò then chốt của việc hình thành hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu trong suốt cuộc đời. Con người không thể sống được nếu không có tế bào mầm tạo huyết.


Tế bào mầm đa năng có thể chiết ra từ hai nguồn chính:



• Nguồn 1. Phân lập trực tiếp từ khối nội bào của phôi ở giai đoạn túi phôi, do đó nó còn được gọi là embryonic stem cells (còn viết tắt là ES, tạm dịch là “tế bào mầm phôi”). Trong khi các tế bào mầm phôi của chuột đã được dùng trong thử nghiệm khoảng hai mươi năm qua, việc nghiên cứu các phôi tế bào mầm trong con người chỉ mới khởi đầu từ năm 1998, qua phát hiện quan trọng của hai nhóm nghiên cứu bên Mỹ [3]. Hiện nay, các tế bào mầm phôi thường được lấy từ các túi phôi do những cặp vợ chồng tham gia vào chương trình thụ thai nhân tạo (IUF) (đồng ý và cho phép).

• Nguồn 2. Có thể phân lập được tế bào mầm đa năng từ mô của bào thai trong những phụ nữ mang thai có chỉ định đình chỉ thai nghén (terminated pregnancy). Đây là nghiên cứu của Tiến sĩ Gearhart, bằng cách lấy ra các tế bào tại một vùng nào đó của bào thai (đã có chỉ định đình chỉ thai nghén) sau đó cho vào cấy trong tinh hoàn hay buồng trứng, và cũng tạo được các tế bào mầm đa năng giống như cách trên.

Ngoài hai nguồn chính, một đề xuất khác mà có thể cho là một nguồn thứ ba có thể phân lập được tế bào mầm đa năng là chuyển nhân của tế bào cơ thể (somatic cell nuclear transfer, hay còn gọi là SCNT). Trong nghiên cứu trên động vật sử dụng phương thức chuyển nhân tế bào cơ thể, các nhà nghiên cứu đã dùng một tế bào trứng của một động vật bình thường, tách nhân ra [loại bỏ cấu trúc di truyền], chỉ giữ lại chất dinh dưỡng và các chất khác có khả năng sản sinh năng lượng cần thiết cho phôi phát triển, rồi trong môi trường phòng thí nghiệm rất cẩn tắc, người ta dùng một tế bào cơ thể hay bất kỳ một loại tế bào nào khác (không dùng trứng hoặc tinh trùng), đặt cạnh tế bào trứng vừa tách nhân đó, và chúng hợp nhất. Tế bào hợp nhất này lập tức phân chia, và được cho rằng có khả năng hoàn toàn phát triển thành con vật hoàn chỉnh, và vì vậy mà tế bào đó là tế bào toàn năng. Như vậy về mặt lí thuyết là từ đây ta có thể chiết xuất được tế bào mầm đa năng. (Con cừu nổi tiếng “Dolly” được sản sinh bằng phương pháp SCNT).
Tóm lại tế bào mầm đa năng, dù dưới hình thức nào thì cũng được chiết xuất từ các tế bào dạng phôi nhưng tiền thai (pre-fetal).
Trong khi đó thì tế bào mầm bội năng cũng có thể chiết xuất từ hai nguồn:

• Có thể lấy từ máu dây rốn (unbilical cord blood) của trẻ lúc mới sinh. Các tế bào từ rốn có thể dự trữ và dùng cho các mục đích ghép.

• Ngoài ra, con người (trẻ em, người lớn) cũng có thể là nguồn cung cấp tế bào mầm cho nghiên cứu. Tuy nhiên tế bào bội năng không phải hiện diện ở tất cả các loại mô của cơ thể ở người lớn. Trong thực nghiệm người ta có thể phân lập được tế bào mầm bội năng từ các tế bào nơ-ron (neurone) thần kinh ở chuột. Nghiên cứu thực nghiệm trên người còn hạn chế, tuy nhiên cũng đã phân lập được có lẽ là tế bào mầm của nơ-ron thần kinh từ mô nãøo người lớn trong quá trình phẫu thuật thần kinh.
Tóm lại, các tế bào mầm bội năng hoàn toàn chiết xuất từ cơ thể hoàn chỉnh, sau sinh.


Ứng dụng của tế bào mầm đa năng


Một trong những lí do quan trọng thúc đẩy việc nghiên cứu và ứng dụng của tế bào mầm đa năng là từ loại tế bào mầm này mà các nhà khoa học có thể hiểu hết được cơ chế và bản chất của những chuỗi biến đổi phức tạp xảy ra trong quá trình phát triển của một cơ thể con người. Mục đích cơ bản là nhận dạng được các yếu tố đóng vai trò quyết định hướng và chuyên biệt hoá chức năng của tế bào. Các nhà khoa học có thể biết được vai trò của gien, song chưa ai biết đích thị gien nào là gien “đưa ra quyết định” và cơ chế hoạt động của nó như thế nào. Và qua nghiên cứu, theo dõi phát triển của tế bào mầm từ cấp độ nhân tế bào lên các nhà khoa học có thể nắm được cơ chế bệnh lí, như suy cơ tim của bệnh nhân chẳng hạn. Một khi đã hiểu được cơ chế làm việc, các nhà khoa học có thể, chẳng hạn như trong việc thay tim hay cấy tim, có thể tránh được các phản ứng thải ghép mà không cần phải dùng thuốc ức chế miễn dịch [rất nhiều tác hại và tác dụng phụ] để chống loại thải cơ quan ghép nữa.
Vậy tế bào mầm bội năng có tiềm năng chữa bệnh mạnh như tế bào mầm đa năng hay không? Phải nói ngay rằng cho đến hiện nay việc sử dụng tế bào mầm bội năng trong điều trị đã được nghiên cứu rộng rãi, có thể tóm gọn trong các lĩnh vực sau: điều trị các chứng ung thư như não, võng mạc mắt, buồng trứng, u đặc (solid), ung thư tinh hoàn, ung thư hệ tạo máu; các chứng bệnh tự miễn (autoimmume diseases) như đa xơ hoá, bệnh lu-pút ban đỏ hệ thống, thấp khớp; bệnh thiếu hụt miễn dịch, các bệnh tổn thương tim, bệnh ống thận bẩm sinh (hội chứng Fanconi) v.v.. Và cũng có nhiều kết qua,û cũng như hứa hẹn, hoặc còn đang trong vòng thẩm tra.
Nghiên cứu và ứng dụng tế bào mầm bội năng trong điều trị bệnh đã đem lại hiệu quả thực tế. Hiệu quả tích cực và hiển nhiên nhất là trong việc dùng tế bào mầm của người trưởng thành để ghép cơ quan mà cũng có thể tránh được hiện tượng loại thải ghép. Thế nhưng phương pháp chữa trị này cũng gặp một vài hạn chế đáng kể. Trước hết là không phải mọi loại tế bào của cơ thể người trưởng thành đều có thể cho phép phân lập tế bào mầm bội năng. Thí dụ như người ta chưa phân lập được tế bào mầm của cơ tim và tế bào mầm tiểu đảo tuỵ tạng. Thứ hai, là các tế bào mầm từ người trưởng thành hiện diện với mức độ rất nhỏ nên khó mà phân lập chúng được dưới dạng tế bào mầm chuyên dụng tinh khiết được, và theo tuổi tác số lượng này càng giảm xuống. Thí dụ muốn phân lập được tế bào mầm nơ-ron thần kinh thì phải có mô não lấy từ các cuộc phẫu thuật não điêàu trị các trường hợp động kinh. Điều khác nữa là trong việc cố gắng phân lập tế bào mầm của chính bệnh nhân bị bệnh, nhiều khi gặp phải khó khăn vì đó là cơ thể của người bị bệnh, có những rối loạn chức năng tế bào rồi! Lại đi lấy tế bào đó thì cần có thời gian đủ để có một cơ phận mới để ghép lại cho bệnh nhân, có lẽ họ không đủ thời gian để chờ đợi. Rồi trên chính những bệnh nhân có các rối loại về di truyền của chính cơ quan đó, liệu ta có tránh được việc nuôi cấy lại một bộ phận bị bệnh tương tự? Và cũng đã có những bằng chứng cho thấy rằng khả năng cho phép phân lập được tế bào mầm từ cơ thể trưởng thành kém hơn ở những trẻ em. Thêm nữa, trên cơ thể trưởng thành, qua tiếp xúc với môi trường sống, cấu trúc về di truyền của một cơ phận nào đó đã có thể bị nhiễm độc rồi, và khi tái tạo lại có khả năng gây rối loạn trong chuỗi di truyền DNA.
Đó là lí do tại sao giới khoa học gia, các nhà nghiên cứu chuyên sâu về di truyền tế bào, di truyền phân tử thúc đẩy việc nghiên cứu tế bào mầm đa năng, chủ yếu là tế bào mầm phôi (ES) để tránh các nhược điểm của tế bào mầm bội năng. Và vì vậy đã động chạm đến các quan niệm y đức cũng như luật pháp trong xã hội.




Một vấn đề đạo đức ?


Vấn đề mấu chốt trong việc nghiên cứu tế bào mầm phôi là cứ mỗi tế bào được chiết ra từ túi phôi (gồm khoảng 100 tế bào) thì phôi bị tiêu hủy. Câu hỏi được đặt ra là sự hủy bỏ phôi này có nên được xem là một hành động phi đạo đức hay không?

Đối với Ki-tô giáo, việc làm này là phi đạo đức. Giáo hoàng John Paul II, từng tuyên bố rằng “Một xã hội tự do và đạo đức, mà nước Mĩ thiết tha muốn có, phải từ bỏ những thói quen làm giảm phẩm cách và xâm phạm sự sống của con người trong bất cứ giai đoạn nào từ thụ thai cho đến khi qua đời” . Cũng trong tác phẩm “Cuốn thánh kinh của cuộc sống” năm 1995 của mình, ông viết: “Các phôi người được nuôi cấy từ ống nghiệm cũng là con người và cũng có quyền hạn, phẩm giá và quyền sống của những con người này cần phải được tôn trọng từ ngay điểm khởi đầu của sự hiện diện. Thật là vô đạo đức khi đi tạo ra các phôi người như là một sự định đoạt rồi để khai thác như là một “ chất liệu sinh học” bỏ đi” [4]. Quan điểm này bắt nguồn từ niềm tin của Ki-tô giáo rằng sự sống của con người khởi đầu từ lúc trứng và tinh trùng liên hợp. Nói một cách khác, Ki-tô giáo công nhận quyền sống và địa vị đạo đức của trứng lúc thụ tinh. Do đó, các tu sĩ Ki-tô giáo phản đối mạnh mẽ việc nghiên cứu tế bào mầm phôi. Họ phát biểu rằng họ chẳng có phản đối gì nếu tiến hành nghiên cứu hay chiết xuất tế bào mầm bội năng từ người trưởng thành hay từ dây rốn của trẻ sơ sinh cả.

Nhiều thành phần trong xã hội cũng phản đối việc hủy diệt một túi phôi để lấy tế bào mầm. Họ cho rằng phôi phải được tôn trọng như một con người. Và ý kiến phản đối này còn đến từ những vị khoa bảng có tiếng tăm. Giáo sư Pellegrino, giám đốc trung tâm Y đức sinh học lâm sàng, Viện đại học Georgetown (Mĩ), tuyên bố: “Tôi phản đối bất kỳ mọi nghiên cứu nào mà làm huỷ hoại cấu trúc phôi người còn sống. Phôi người là thành viên của loài người tính từ khi thụ tinh, và vì vậy cần phải gắn liên với đạo đức đặc biệt. Tôi chọn điểm mốc là 14 ngày, các nghiên cứu tiến hành trên phôi người vào thời điểm trước đó thì chấp nhận được” [5].


Một túi phôi không phải là một nhóm tế bào thông thường, mà nó có đầy đủ các thông tin về di truyền, và có khả năng phát triển thành một con người. Vì thế, mà người ta lí giải rằng sự tôn trọng cho con người phải bình đẳng, bất kể con người đang ở trong giai đoạn phát triển nào.
Đứng trên quan điểm vị lợi thực tế, phôi là một thực thể không có khả năng tự vệ, hiện nay không được bảo vệ. Ngoài ra, người ta còn chất vấn vấn đề phân phối phí tổn và lợi ích có thực sự công bằng và theo nguyên tắc công lí hay không. Họ lập luận rằng thay vì đem tiền của công sức vào nghiên cứu các tế bào mầm phôi này thì tập trung sức lực vào nghiên cứu cơ chế bệnh lí ở khía cạnh khác, hoàn thiện nghiên cứu hoá dược, cơ chế tác động dược động, dược lực học để tìm ra thuốc chữa bệnh mới. Lịch sử nghiên cứu y khoa cho thấy chúng ta cần phải củng cố bảo vệ những người yếu thế, thấp cổ bé họng. Tuy nhiên, chính sách bảo vệ này chưa được áp dụng cho các phôi tế bào. Do đó, có người dựa vào nguyên lí phòng ngừa (precautionary principle) cho rằng thà xã hội sai lầm trong việc không tiêu hủy phôi hơn là sai lầm trong việc hủy diệt một con người!

Những tranh luận xung quanh nghiên cứu tế bào mầm không chỉ giới hạn trong giới nghiên cứu khoa học hay tôn giáo, mà còn lan rộng ra ngoài xã hội nói chung, lôi cuốn theo giới chính trị. Kể ra thì cũng dễ hiểu, vì sử dụng bào thai con người cho nghiên cứu khoa học không những là một việc làm tế nhị, mà còn có ý nghĩa về xã hội, tôn giáo, đạo đức, và chính trị. Người ủng hộ và người chống đối đang đứng trước một trận chiến là có nên hợp pháp hóa hay không hợp pháp hóa nghiên cứu tế bào mầm.

Phản ứng chính trị tỏ ra rất khác biệt giữa các quốc gia. Ở Âu châu, một số nước như Áo, Ba Lan, Tiệp, Thụy Sĩ và Na Uy không có đạo luật nào ngăn cấm nghiên cứu hay sử dụng tế bào mầm. Ở các quốc gia khác như Thụy Điển, tế bào mầm được cho phép sử dụng. Đức cho phép các nhà khoa học nhập cảng tế bào mầm từ các nước khác. Anh có lẽ là quốc gia có chính sách rộng rải và thực tế nhất: Anh chó cho phép nghiên cứu tế bào mầm. Ở Úc thì vẫn đang bàn cãi gay gắt về vấn đề cloning và tế bào mầm. Canada thì cho phép dùng tế bào mầm trong một khuôn khổ nhất định, nhưng Quebec lại cấm dùng phôi tế bào trong nghiên cứu. Ở Nhật, phôi tế bào mầm có thể được gieo trồng với điều kiện các tế bào này lấy từ các chương trình thụ thai nhân tạo. Tại Mĩ, trong một thông điệp phổ biến rộng rãi trong công chúng vào ngày 9 tháng 8 năm 2001, Tổng thống Goerge W. Bush thông báo về một quyết định (phải mất một thời gian suy nghĩ lâu dài) là chi cấp một ngân sách thích hợp chỉ cho phép nghiên cứu trên khoảng 60 dòng tế bào mầm (stem cell line) từ phôi đã được phá huỷ rồi mà thôi. Trong khi Ông Bush từ chối cấp ngân sách nghiên cứu tế bào mầm từ những phôi chưa phá huỷ, điều cần ghi nhận là quyết định này của ông chỉ áp dụng cho các đơn vị nghiên cứu công lập thôi chứ chưa áp dụng cho các đơn vị nghiên cứu tư.

Sự sống con người bắt đầu từ lúc nào?


Tuy nhiên các quan điểm trên đây, kể cả quan điểm của Ki-tô giáo, không giải thích tại sao một trứng thụ tinh được xem là một con người có đạo đức, cũng như không cho biết những tiêu chí nào mà Ki-tô giáo và những người phản đối [chương trình nghiên cứu tế bào mầm] dùng để định nghĩa một con người. Thành ra, câu hỏi cần được đặt ra là: “sự sống con người bắt đầu từ lúc nào?” Phát biểu một cách khác: khi nào thì một sinh vật, một thực thể được xem là một con người.
Phải nói ngay rằng không có câu trả lời đơn giản cho câu hỏi này, bởi vì có nhiều khía cạnh để định nghĩa một con người, và những khía cạnh này phát sinh trong nhiều thời điểm khác nhau. Theo chúng tôi, một thực thể chỉ là con người khi thực thể đó hội đủ những đặc tính di truyền, khả năng nhận thức, nhân dạng sinh học, và ý thức đạo đức.

• Về khía cạnh di truyền, tất cả các thông tin để cấu tạo nên một con người đều chứa trong một hợp tử. Từ lúc thụ thai, tế bào đã có đủ 23 cặp nhiễm sắc thể, và có khả năng tự nhân ra nhiều tế bào khác để cấu tạo thành một con người sau này. Điều cần nói thêm là không chỉ tế bào mầm mới có các thông tin di truyền, mà hầu hết các tế bào khác trong con người đều chứa thông tin di truyền.

• Tiềm năng nhận thức chỉ phát sinh sau khi bào thai đã có một cấu trúc thần kinh cơ bản. Trong giai đoạn thụ thai, cấu trúc này chưa có trong tế bào. Lí trí chỉ phát triển khi vùng vỏ ở bộ não được hình thành, và chỉ khi nào những vùng như thế hoàn toàn phát triển trong giai đoạn cuối cùng mang thai. Kể cả đến khi trẻ sơ sinh ra đời các dây thần kinh vẫn chưa được phát triển đầy đủ và trưởng thành được.

• Nhân dạng sinh học (biological identity), trên thực tế bào thai người 4 tháng (16 đến 20 tuần tuổi thai) là đã có đầy đủ các cơ phận như một con người.

• Về khía cạnh đạo đức, một cá nhân chỉ nhận thức được đúng / sai sau khi sinh ra và có thể trước độ tuổi niên thiếu hay dậy thì, lúc mà cá nhân đã phát triển cá tính riêng biệt và ý thức được các giá trị đạo đức xã hội.

Vì có nhiều khía cạnh như thế, sự bất đồng ý kiến về thời điểm mà con người phát sinh là một điều dễ hiểu và đương nhiên. Tuy nhiên, qua những cân nhắc trên đây, thật khó mà cho rằng phôi là con người, và không có lí do gì để điều chỉnh cái thời điểm phát sinh con người lùi lại thời điểm thụ tinh. Một hợp tử có thể có đầy đủ các thông tin di truyền (cũng như một cọng tóc, một khối nước bọt, một giọt máu đều có thông tin di truyền), nhưng hợp tử cũng có thể tự tách rời thành hai hợp tử (sinh đôi), hay cũng có thể phát triển thành một bào thai. Chỉ khi nào một hợp tử phát triển thành bào thai thì những khía cạnh con người mới có ý nghĩa. Và ngay cả khi hợp tử có khả năng phát triển thành bào thai, có nhiều yếu tố khác trong giai đoạn thai nghén có thể ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của bào thai. Thụ tinh chỉ là một trong nhiều bước cần thiết để phát triển thành một cá nhân, một con người. Thụ tinh không phải là mốc thời điểm để định nghĩa một con người, và kết quả khởi đầu của thụ tinh không phải là một con người. 

Hủy diệt tế bào phôi là vô đạo đức ?


Quay trở lại câu hỏi căn bản: có thể cho rằng sự hủy diệt một túi phôi là một hành động giết người, hay vô đạo đức hay không? Như trình bày trên, một số người cho rằng hủy diệt túi phôi để chiết tế bào mầm là một việc làm vi phạm đạo đức con người. Nhưng xét cho cùng, quan điểm này có vẻ nghiêng về cảm tính hơn là lí trí.
Phôi thường hay bị sẩy, và bị tiêu hủy một cách “tự nhiên” Thật vậy, nếu cho một khả năng thụ thai tối đa của một người phụ nữ thì tháng nào đến kỳ đều có khả năng thụ thai được. Nhưng ta chỉ xác định được là phôi đó đó đã có thể đậu thành thai khi họ có thai, còn làm sao xác định được bao nhiêu phôi đó đã không tạo thành thai được, và bị thải ra ngoài! Và không ai lại lí giải rằng quá trình thải này là vô đạo đức, hay trái luân lí! Hoặc là, trong một trường hợp một người phụ nữ nào đó đã mang thai, mà phải có chỉ định đình chỉ thai nghén (bệnh tật đe doạ tính mạng) thì có phải là vô đạo đức hay không khi ta huỷ một bào thai hẳn hoi đó?
Thêm nữa như đã phân tích ở trên một tế bào mầm đa năng là tế bào sẽ phát triển thành thai. Thế nhưng nếu chỉ đem cấy tế bào mầm đa năng này không thôi vào trong tử cung phụ nữ thì nó sẽ chết và không bao giờ thành thai để mà thành người được (vì còn thiếu lá rau để nuôi dưỡng). Nói lá rau cũng là con người hay một bộ phận của con người thì không được. Như vậy thực thể người có thể xác định ở giai đoạn nào đó ít nhất là khi đã thành hình người, chứ khó thể ở giai đoạn phôi, thậm chí tiền kỳ giai đoạn thai. Cho nên, ta có thể nói dù là tế bào toàn năng (totipotent), hay đa năng (pluripotent) thì cũng chỉ có thể là một chất liệu cần thiết để hình thành sự sống chứ chưa phải là một thực thể sống. Nó như một tế bào sống. Và không thể coi một tế bào sống là một thực thể sống được.

Thêm nữa như đã phân tích ở trên một tế bào toàn năng là một tế bào có khả năng để cho một bào thai để lớn lên thành một con người hoàn chỉnh, thông qua việc phân chia thành tế bào đa năng và lớp tế bào ngoài. Và chỉ có phần tế bào mầm đa năng mới phát triển thành thai mà thôi. Thế nhưng nếu chỉ đem cấy tế bào mầm đa năng này không thôi vào trong tử cung phụ nữ thì nó sẽ chết và không bao giờ thành thai để mà thành người được! Vậy nhận định như thế nào ở đây? Nói khái niệm con người tính từ khi thụ tinh thì quả khó, vì chỉ có một phần sau đó (tế bào đa năng) mới thành người, mà đem cái “người” đó cấy vào cơ thể thì không thể thành người được (vì thiếu lá rau nuôi dưỡng).

Một sự hủy diệt vô đạo đức và trái luân lí chỉ khi nào (i) sự hủy diệt đó có chủ tâm và (ii) thực thể bị tiêu hủy là sinh vật có ý thức, có đạo đức. Điều kiện thứ nhất giải thích tại sao những sự huỷ diệt do thiên tai hay tai nạn như bão lụt, núi lửa, thú dữ giết người, kể cả tai nạn do con người gây ra như đắm tàu do tai nạn không lường trước, tai nạn máy bay do thời tiết xấu đột ngột là ngoài phạm vi của luân lí và đạo đức. Điều kiện thứ hai giải thích tại sao những hành động hủy diệt cây cỏ, côn trùng, thậm chí uống thuốc trụ sinh (chẳng hạn như penicillin), v.v... không được xem là vô đạo đức. 

Cả hai điều kiện này phụ thuộc vào nhận thức. Thú dữ là động vật không tỉnh thức, không có ý thức, và do đó không có một nhận thức nào về hậu quả đạo đức của hành động của nó, nên hành động hủy diệt này phải được xem là ngoài phạm vi của đạo đức. Cũng chẳng ai quy kết cho viên phi công lái máy bay vì tai nạn thời tiết bất ngờ là vô đạo đức. Tương tự, khoai, rau cỏ, vi khuẩn, muỗi, v.v… tất cả đều không có ý thức. Tiêu hủy chúng không có nghĩa là vô đạo đức, bởi vì chúng không phải là những sinh vật đạo đức.

Trong trường hợp của phôi, đó là một thực thể không có một ý thức nào, và cũng chính vì các tế bào phôi chưa biệt hóa thành các tế bào biệt dụng (như tế bào thần kinh) do đó chúng có giá trị trong nghiên cứu y học. Phôi, cũng giống như rau cỏ hay vi khuẩn hoàn toàn không có ý thức. Phôi có thể có đầy đủ chất liệu di truyền, nhưng các chất liệu đó chưa phát sinh thành bộ não. Vả lại, chất liệu di truyền chỉ là một điều kiện cần, chứ chưa là một điều kiện đủ để phát sinh một con người.

Một số người phản đối nghiên cứu tế bào mầm cho rằng việc thay thế (hay tái tạo) tế bào mới, hay phát sinh di truyền (clone) là một việc làm chỉ có Thượng đế (God) mới có quyền. (Nhưng họ không giải thích tại sao đóng vai trò thượng đế để giải quyết vấn đề bệnh tật là một việc làm xấu xa cần phải tránh.) Một cách gián tiếp, những người phản đối nghiên cứu tế bào mầm tin tưởng vào thuyết di truyền định mệnh (genetic determinism), và hàm ý cho rằng dùng tế bào mầm để chữa trị bệnh tật là một sự cướp quyền của thượng đế, cái quyền mà con người không nên có. Nhưng luận điểm này cũng đồng nghĩa với sự chối bỏ vai trò của ý thức, của tri thức, và có thể nói là phản khoa học. Không ai biết thượng đế có quyền gì, và cũng chẳng ai thấy thượng đế ra sao hay phát biểu gì. Chưa có bằng chứng gì để cho rằng ý thức là một cái gì đó do thần linh nào đó ban cho. Nhưng có bằng chứng cho thấy ý thức không phát sinh một cách tình cờ, mà là sản phẩm của một quá trình lao động tiến hóa. Tri thức của con người liên tục đi tìm chân lí và đặt câu hỏi về đạo đức, và đó chính là một sản phẩm của chính con người, chứ không phải sản phẩm của một thượng đế nào cả.

Những cân nhắc trên đây cho thấy, nghiên cứu phôi tế bào mầm không phải là một việc làm vô đạo đức hay trái luân lí. Quyền nghiên cứu dùng tế bào mầm để chữa trị bệnh tật không phải là chỉ là quyền uy của một thượng đế vô hình nào đó, mà thể hiện một sự mở rộng lựa chọn của con người, một sự mưu cầu tri thức nhằm vào mục tiêu cuối cùng là diệt khổ. Diệt khổ cũng là một mục tiêu của Phật.

Chú thích

[1] Tế bào là đơn vị cơ bản của mọi sinh vật. Mỗi tế bào có một màng bao bằng chất béo (lipid) và chất đạm (protein), hai màng này kiểm soát tất cả các chất ra và vào tế bào. Trung tâm của mỗi tế bào là cái nhân (nucleus). Cái nhân này có chứa những chất liệu di truyền mà ta thường gọi là DNA (viết tắc từ chữ deoxyribonucleic acid).
Theo một ước tính gần đây, mỗi gram mô (tissue) chứa khoảng một tỷ tế bào. Có nhiều nhóm tế bào trong cơ thể con người, và mỗi nhóm tế bào chuyên dụng (specialized cells) có nhiệm vụ khác nhau. Chẳng hạn như tế bào não có nhiệm vụ giữ gìn trí nhớ và tri thức, chỉ huy vận động, cảm giác v.v..; tế bào tim kiểm soát tim đập nhịp nhàng; tế bào ruột điều chế chất nhầy (mucus), v.v... Trong cơ thể, các tế bào này có thời gian tồn tại nhất định. Chẳng hạn như tế bào tinh trùng nam chỉ sống sót khoảng vài tháng, trong khi đó tế bào trứng của phái nữ có thể tồn tại đến 50 năm khi chưa rụng. Đa số tế bào đều có khả năng tái tạo, trừ các tế bào thần kinh.
Về cấu trúc của một đơn vị tế bào người đều giống nhau, mặc dù khác nhau về chức năng và thời gian sống : trong mỗi tế bào đều có một cái nhân (nucleus) nằm chính giữa. Nhân này có chứa những chất liệu di truyền mà ta thường gọi là DNA (viết tắc từ chữ Anh, DeoxyriboNucleic Acid). Mỗi nhân thường có hàng triệu DNA. mỗi DNA gồm có bốn mẫu tự (yếu tố hóa học, còn gọi là nucleotide): A (adenine), C (cytosine), G (guanine), và T (thymine). Một mảng DNA tạo thành một gien. Và nhiều gien tạo thành một bộ di truyền hay nhiễm sắc thể, còn gọi là chromosome. Cơ thể Con người có 23 đôi nhiễm sắc thể. Có thể nói một cách ví von bằng cách dùng quyển sách như là một ví dụ để minh họa cho mối liên hệ giữa gien, nhiễm sắc thể, và bases. Trong sách có 23 chương (chromosome); mỗi chương có nhiều câu chuyện (gien); mỗi câu chuyện có nhiều đoạn văn (exons); mỗi đoạn văn có nhiều chữ (codons); và mỗi chữ được viết bằng 4 mẫu tự (bases).

[3] J.A. Thomson, và đồng nghiệp, “Embryonic stem cell lines derived from human blastocysts,” Tập san Science, năm 1998; bộ 282: trang 1145-1147; B.E. Reubinoff, và đồng nghiệp, “Embryonic stem cell lines from human blastocysts: somatic differentiation in vitro,” Tập san Nature Biotechnology, năm 2000; bộ 18: trang 399-404.

[4] Tạm dịch từ phát biểu “A free and virtuous society, which America aspires to be, must reject practices that devalue and violate human life at any stage from conception until natural death,” John Paull II, 2001; và trong cuốn The Gospel of life, Pope John Paul II, 1995 : “ Human embryos obtained in vitro are human beings and are subjects with rights; their dignity and right to life must be respected from the first moment of their moment of their existence. It is immoral to produce human embryos destined to be exploited as disposable “biological material”.”

[5] Physician’s Weekly, 4 tháng 10, 1999, Bộ XVI, số 37.

Thứ Tư, 30 tháng 4, 2014

BIOPHOTON - Ánh Sáng Sinh Học

Vào năm 1970, một nhà lý sinh lý thuyết (theoretical biophysicist) tại Đại học Marburg ở Đức, Fritzz-Albert Popp, giảng dạy X quang - sự tương tác của bức xạ điện từ (EM) trên các hệ thống sinh học. 

Ông đã kiểm tra hai phân tử gần như giống hệt nhau: benzo [a] pyrene, một hydrocarbon đa vòng, từng được biết đến là một trong những chất gây ung thư nguy hiểm nhất đối với con người , và song sinh của nó Benzo [ e] pyrene (có cấu trúc phân tử khác biệtchút ít so với benzo [a] ). Popp đã chiếu sáng cả hai phân tử với tia cực tím (UV) trong mục đích tìm ra những gì đã làm hai phân tử đó trở nên gần giống với nhau như vậy! 


Tại sao thí nghiệm với ánh sáng tia cực tím?

Popp đã chọn nghiện cứu với ánh sáng tia cực tím.
Sở dĩ thế, vì trước đó, nhà sinh vật học Nga tên Alexander Gurwitsch, trong khi khảo sát củ hành tây vào năm 1923, phát hiện ra rằng: rễ củ hành có thể kích thích một rễ củ hành khác ở cạnh đó, nếu hai rễ cây được đựng trong các chậu thủy tinh bằng thạch anh. Trái lại sẽ không có tương tác gì cả nếu chúng được đặt trong các chậu thủy tinh silic. Ta thấy có sự khác biệt ở đây là silicon lọc bước sóng tia cực tím của ánh sáng trong khi thạch anh thì để tia cực tím đi qua! Gurwitsch đã giả thuyết rằng rễ củ hành có thể giao tiếp với nhau bằng ánh sáng bức xạ của tia cực tím.
anh
Ảnh: Tất cả các rung động của năng lượng là một phần của quang phổ điện từ. Chúng bao gồm năng lượng điện, nhiệt , âm thanh, ánh sáng , sóng radio và sóng phóng Ánh sáng tia cực tím chỉ là một phần nhỏ của quang phổ năng lượng điện từ với bước sóng rất ngắn.

Kết quả những gì Popp phát hiện ra là:
Benzo [a] pyrene (các phân tử tạo ung thư) hấp thụ ánh sáng cực tím, sau đó thay đổi và phát lại ở một tần số hoàn toàn khác - đó là một ánh sáng " Nhiễu loạn” (Scrambler) .
Benzo [ e] pyrene (vô hại đối với con người), cho phép ánh sáng tia cực tím để đi qua nó mà không làm thay đổi ánh sáng này!

Popp lúng túng bởi sự khác biệt này, và tiếp tục thử nghiệm với tia UV và các hợp chất khác. Ông đã thực hiện thử nghiệm của ông trên 37 hóa chất khác nhau, một số gây ung thư, một số không. Sau một thời gian, ông đã có thể tiên đoán được các chất nào có thể gây ung thư. Các hợp chất gây ung thư đều hấp thu ánh sáng tia cực tím, sau đó làm thay đổi hoặc thúc đẩy sự thay đổi tần số tia cực tím đó.
Có một đặc tính kỳ lạ của các hợp chất: mỗi chất gây ung thư chỉ phản ứng với ánh sáng ở một bước sóng cụ thể - 380 nm ( nanomet) trong phạm vi cực tím . Popp tự hỏi tại sao một chất gây ung thư sẽ là một ánh sáng “nhiễu loạn”. Ông bắt đầu đọc các tài liệu khoa học cụ thể về các phản ứng sinh học của con người, và đã xem qua thông tin về một hiện tượng gọi là "sửa chữa quang học”. 

Sửa chữa bằng ánh sáng (Photo-repaire)

Hiện tượng này được biết từ các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm sinh học. Nếu bạn dùng một tia ánh sáng cực tím để hủy diệt 99 phần trăm các tế bào, kể cả DNA của nó, thì bạn vẫn có thể sửa chữa các thiệt hại (gần như hoàn toàn) của các tế bào này chỉ trong một ngày, bằng cách chiếu sáng các tế bào với cùng bước sóng, nhưng với một cường độ yếu hơn nhiều. Như vậy một ánh sang cực tím phá hủy hay sửa chữa tế bào, chỉ khác nhau ở cường độ mà thôi! Cho đến ngày nay, các nhà khoa học vẫn không thấu hiểu hiện tượng được gọi là sửa chữa quang học, nhưng không có ai phủ nhận nó.
bệnh khô da xeroderma pigmentosum


Popp cũng biết rằng những bệnh nhân bị bệnh khô da xeroderma pigmentosum (Xơ cứng da tăng sắc tố)] cuối cùng chết vì ung thư da bởi vì hệ thống sửa chữa quang học của họ không thể sửa chữa những hư hỏng do ánh sáng mặt trời. Ông cũng bị ấn tượng bởi thực tế là “sửa chữa quang học” hoạt động hiệu quả nhất tại bước sóng 380 nm – Đây cũng chính là tần số mà các hợp chất gây ung thư có phản ứng để gây nhiễu loạn.

Đến đây, Popp đã có thể thực hiện bước nhảy vọt trong suy luận của mình. Nếu chất gây ung thư chỉ phản ứng với tần số này, nó phải có liên kết với sửa chữa quang học. Nếu vậy, điều này có nghĩa là phải có một số loại ánh sáng trong cơ thể chịu trách nhiệm về sửa chữa quang học. Một hợp chất gây ung thư vì nó khóa (block) ánh sáng này để tạo ra nhiễu loạn, khiến cơ chế sửa chữa quang học không làm việc được nữa. Điều này có vẻ hợp lý, nhưng thực sự nó có đúng hay không? 


Ánh sáng bên trong cơ thể

Popp đã hơi bối rối khi khám phá điều này. Ông đã viết về nó trong một bài báo và một tạp chí y khoa có uy tín đã đồng ý xuất bản nó.
Không lâu sau đó, Popp đã gặp một sinh viên tên là Ruth Bernhard, người nhờ cậy Popp hướng dẫn cho luận án tiến sĩ của mình. Popp nói với Ruth ông sẽ nhận lời, nếu sinh viên này có thể khẳng định rằng ánh sáng được phát ra từ cơ thể con người .
Cuộc kết hợp này là hoàn toàn tình cờ với Popp, vì Ruth vốn là một nhà vật lý thực nghiệm giỏi. Ruth nghĩ ý tưởng của Popp là vô lý, và ngay lập tức bắt tay vào việc thiết bị xây dựng để chứng minh giả thuyết của Popp…là sai!
Trong vòng hai năm, Ruth đã xây dựng một thiết bị giống như một máy dò tia X lớn, trong đó sử dụng một bộ phận làm tăng bội các hạt photon để có thể đếm ánh sáng một cách cụ thể từng photon một. Thậm chí cho đến ngày nay, nó vẫn là một trong những thiết bị tốt nhất trong lĩnh vực này. Máy đã phải rất nhạy để có thể đo lường những tia mà Popp đã tiên lượng là sẽ phát ra rất yếu ớt.
Trong một bộ phim tài liệu cũ được thực hiện trong phòng thí nghiệm tại Viện Quốc tế về Lý Sinh Học, Tiến sĩ Popp mở một cái hộp chỉ to bằng một hộp bánh mì . Ông đặt một cái lá mới cắt còn tươi và một que diêm gỗ trong một hộp nhựa, rồi đặt vào trong một phòng tối được đóng chặt cửa. Ngay sau khi mở thiết bị photo-multiplier, hình ảnh xuất hiện trên một màn hình máy tính. Que diêm có màu đen trong khi ánh sáng màu xanh phát ra từ chiếc lá được nhìn thấy rất rõ ràng.
Tiến sĩ Popp thốt lên: "Bây giờ chúng ta đã biết, con người thực chất là một thực thể của ánh sáng."

Các lá phát xạ ánh sáng của biophoton (bên phải)

Năm 1976, họ đã sẵn sàng cho thử nghiệm đầu tiên với cây dưa chuột. Thiết bị của họ cho thấy các photon, tức sóng ánh sáng, của một ánh sang có cường độ cao đáng ngạc nhiên đã được phát ra từ hột của cây dưa. Để tìm hiểu ánh sáng phải làm gì với một hiệu ứng quang hợp, họ quyết định làm thực nghiệm tiếp theo - với khoai tây – bằng cách trồng cây giống trong bóng tối. Lần này, khi các cây con được đặt trong thiết bị gia bội photon, họ đã ghi nhận được một cường độ ánh sang phát ra cao hơn nữa. Ngoài ra, họ còn thấy các photon trong các hệ thống sống còn hòa điệu hơn những gì họ từng tiên lượng.
Popp đã bắt đầu suy nghĩ về ánh sáng trong tự nhiên. Ánh sáng đã có mặt trong thực vật trong quá trình quang hợp. Khi chúng ta ăn thức ăn thực vật, Popp nghĩ , chúng ta đã đưa các photon vào cơ thể và lưu trữ chúng.
Khi chúng ta ăn bông cải xanh và tiêu hóa nó, nó được chuyển hóa thành carbon dioxide (CO2) và nước, cùng với ánh sáng được lưu trữ từ mặt trời và quá trình quang hợp. Chúng ta trích xuất CO2 và thải bỏ nước, nhưng ánh sáng, một dạng sóng điện từ (electro-magnetic), phải được lưu trữ. Khi đ vào cơ thể, năng lượng của các photon phân tán, rồi phân phối trên toàn bộ phổ (spectrum)  tần số điện từ, từ thấp nhất đến cao nhất.
Năng lượng này là động lực cho tất cả các phân tử trong cơ thể của chúng ta. Trước khi bất kỳ phản ứng hóa học có thể xảy ra, có ít nhất là một điện tử phải được kích hoạt bởi một photon có bước sóng nhất định và có đủ năng lượng .
Các nhà hóa sinh đoạt giải Nobel là Lehninger đề cập đến trong sách giáo khoa của ông rằng một số phản ứng trong tế bào sống xảy ra nhanh hơn khá nhiều so với những gì tương ứng với nhiệt độ 37C. Lời giải thích là dường như cơ thể chúng ta cố tạo ra các phản ứng hóa học qua trung gian các rung động điện từ (biophotons ) 


Ánh sáng (photon) kiểm soát tất cả mọi thứ trong tế bào

 Photon vận hành các quá trình của cơ thể giống như một nhạc trưởng điều phố các nhạc cụ cá nhân thành âm thanh tập thể. Ở các tần số khác nhau, các photon thực hiện các chức năng khác nhau. Popp thấy rằng các phân tử trong các tế bào chỉ  phản ứng với các tần số nhất định, và một loạt các rung động từ các photon gây ra một loạt các tần số trong các phân tử khác của cơ thể.
Lý thuyết này đã được hỗ trợ bởi Tiến sĩ Veljko Veljković hiện đang phụ trách Trung tâm Nghiên cứu đa ngành và Kỹ thuật , Viện Khoa học hạt nhân Vinca. Bà đã dám đặt một câu hỏi làm các nhà sinh học tế bào bối rối mãi mãi:
"Điều gì kích hoạt hàng chục ngàn các loại phân tử khác nhau trong cơ thể để nhận ra mục tiêu cụ thể của chúng?"
Quá trình sống phụ thuộc vào sự tương tác đặc thù giữa các phân tử chọn lọc, và điều đó cũng đúng đối với biến dưỡng cơ bản (basic metabolism) xảy ra ngay ở các trạng thái cảm xúc tinh tế. Nó giống như việc cố gắng để tìm một người bạn trong bóng tối của phòng khiêu vũ rất đông người.

 Hình ảnh thông thường của một tế bào hiện nay được nường tượng như là một túi của các phân tử hòa tan trong nước. Thông qua sự xúc chạm tình cờ - va chạm ngẫu nhiên - những phân tử có hình dạng tương ứng “ổ khóa và chìa khóa” kết hợp với nhau để các phản ứng sinh hóa thích hợp có thể xảy ra. Lý thuyết về mô hình “Ổ khóa và chìa khóa" này hiện nay đã được cải tiến để linh hoạt và thực tế hơn. Đó là cơ chế "gây ra phù hợp '. Giả thuyết cho phép mỗi phân tử có thể tự thay đổi hình dạng một chút để phù hợp tốt hơn sau khi chúng nhận được các liên lạc. Ngoài ra ý tưởng chính (Khóa và Chìa) vẫn giữ nguyên.

Phải giải thích như thế nào khi các enzym có thể nhận ra chất đặc hiệu của chúng, làm thế nào các kháng thể trong hệ thống miễn dịch có thể bám vào những kẻ xâm lược và giải giáp vũ khí của chúng. Nói rộng hơn, đó là cách các protein có thể " cập bến " với các protein đối tác khác nhau, hoặc bám vào axit nucleic cụ thể để kiểm soát biểu hiện của gen , hoặc lắp ráp thành các ribosome loại dùng để giải mã protein, hoặc lắp ráp các tổ hợp đa phân tử sửa đổi các tin nhắn di truyền trong nhiều cách khác nhau. Nhưng với hàng ngàn - thậm chí hàng trăm ngàn phản ứng xảy ra mỗi giây chỉ trong một tế bào này có vẻ đã gạt bỏ cách giải thích bằng lý thuyết "cơ học" ra xa.
Dường như giải thích phù hợp nhất là bằng cách nào đó mỗi phân tử sẽ phát ra một trường điện từ duy nhất có thể "cảm nhận" được những phân tử thích hợp. Nó giống như một "vũ điệu" trong môi trường của các tế bào và các phân tử trong tế bào cùng di chuyển nhịp nhàng với vũ điệu đó. Âm nhạc ở đây được cung cấp bởi các photon sinh học (biophoton).

Các tế bào liên lạc và trao đổi thông tin bằng các biophoton


" Veljkovic và Cosic cho rằng các tương tác giữa các phân tử là điện trong tự nhiên, và tương tác này diễn ra trên một khoảng cách lớn hơn so với kích thước của các phân tử. Cosic sau đó giới thiệu ý tưởng về “tương tác điện từ trường năng động” (dynamic electromagnetic field). Các phân tử nhận ra mục tiêu cụ thể của mình (và ngược lại) bằng cộng hưởng điện từ. Nói cách khác, các phân tử gửi tần số cụ thể của sóng điện từ. Đây là cách không chỉ cho phép chúng "nhìn thấy" và " nghe" lẫn nhau, vì cả hai trạng thái photon và phonon cùng xuất hiện trong sóng điện từ. Chúng không những ảnh hưởng lẫn nhau từ một khoảng cách và thu hút lẫn nhau một cách không thể cưỡng lại được nếu rung động lệch phase "
(Theo The Real Bioinformatics Revolution: Protein and nucleic acids nucleic singing to one another (available report@i-sis.org.uk)

"Có khoảng 100.000 phản ứng hóa học xảy ra trong mọi tế bào trong mỗi giây. Các phản ứng hóa học chỉ có thể xảy ra nếu các phân tử tương ứng được kích thích bởi một photon ... Sau khi kích hoạt một phản ứng, photon lại trở về môi trường cũ của nó và như thế nó lại sẵn sang cho nhiều phản ứng khác nữa ... Như vậy, dường như.chúng ta đang bơi trong một đại dương của ánh sáng."
Popp cho là sự phát xạ biophoton (biophoton emission) đã hình thành một hệ thống truyền thông lý tưởng cho việc chuyển giao thông tin đến nhiều tế bào trên cơ thể. Nhưng câu hỏi quan trọng nhất vẫn là : nơi được Ánh sáng đã đến từ đâu?

Được biết, khi ethidium bromide được cho vào các mẫu DNA , nó len giữa các cặp cơ bản của chuỗi xoắn kép, khiến cặp chuỗi DNA tách rời ra. Sau khi sử dụng hóa chất, họ đo ánh sáng phát ra từ mẫu. Popp thấy rằng nếu nồng độ ethidium càng lớn , càng có nhiều DNA tách ra và cường độ ánh sang phát ra càng mạnh. Ngược lại, khi sử dụng ethidium ít hơn, ánh sáng cũng phát ra ít hơn.
Popp cũng phát hiện ra rằng DNA có thể gửi một loạt các tần số, một số trong đó dường như có liên quan đến những chức năng nhất định. Nếu DNA lưu trữ ánh sáng này, nó sẽ  phát ra thêm ánh sáng một cách tự nhiên bằng cách giải nén nguồn lưu trữ.

Các nghiên cứu chứng tỏ cho Popp rằng một trong những nguồn quan trọng nhất của ánh sáng và sự phát xạ biophoton là DNA. DNA là như âm thoa bậc thầy của cơ thể. Nó sẽ rung lên một tần số cụ thể và các phân tử nhất định nào đó sẽ rung theo. Ông nói rằng điều này có thể giúp ông tìm ra các mối liên kết còn thiếu trong lý thuyết DNA hiện tại và có lẽ là điều kỳ lạ vĩ đại nhất trong sinh học của con người – Làm thế nào một tế bào duy nhất có thể biến thành một con người hoàn chỉnh!


Các tế bào có thể "nói chuyện" với nhau

Khi bạn bị một vết cắt hoặc vết xước trên da, các tế bào bị tổn thương, bằng cách nào đó, báo hiệu với các tế bào khỏe mạnh xung quanh, để bắt đầu tái tạo bản sao của mình để hàn bít lại chỗ da hở. Khi da trở lại bình thường, một tín hiệu được gửi đến các tế bào để nói với chúng rằng phải ngưng lại qui trình tái tạo. Các nhà khoa học đã rất phân vân về tính chính xác của qui trình này .


Với lý thuyết bức xạ biophoton, Popp tin rằng ông đã có thể trả lời cho vấn đề này. Hiện tượng điều hợp và thông tin liên lạc này chỉ có thể xảy ra trong một hệ thống thống nhất (holistic system) với một nhạc trưởng trung tâm.  Những thí nghiệm của Popp cho thấy với những bức xạ ánh sáng yếu là cũng đủ cho qui trình sửa chữa của cơ thể. Bức xạ phải có cường độ thấp bởi vì các thông tin liên lạc diễn ra trong mức lượng tử rất nhỏ bên trong tế bào. Cường độ cao hơn sẽ tạo ra quá nhiều "độ nhiễu" làm mất tính hiệu quả.
Số lượng photon phát ra dường như có liên quan đến mức độ tiến hóa của sinh vật- Các sinh vật càng phức tạp thì các photon được phát ra càng ít hơn . Động vật và thực vật thô sơ có xu hướng phát ra 100 photons/cm2/sec ở bước sóng 200-800 nm, tương ứng với một tần số rất cao của sóng điện từ trong phổ ánh sáng có thể nhìn thấy được. Trong khi con người chỉ phát ra 10 photons/cm2/sec, tại cùng tần số.

Trong một loạt các nghiên cứu, Popp đã dùng một người trợ lý. Đó là một phụ nữ trẻ khỏe mạnh 27 tuổi - ngồi trong phòng mỗi ngày liên tục trong chín tháng, để ông đã đọc photon phát ra từ bàn tay và trán của cô ta. Popp sau đó phân tích các dữ liệu và ngạc nhiên phát hiện ra rằng lượng bức xạ ánh sáng tuân theo mô hình cố định - nhịp sinh học 7, 14 , 32 , 80 và 270 ngày - và mẫu tương tự như vậy cũng đã được ghi nhận theo ngày hoặc đêm, theo tuần và theo tháng. Như thể, cơ thể đã tuân theo nhịp sinh học của riêng mình và theo nhịp của thế giới tự nhiên! 


Ung thư là mất đi sự hòa điệu của ánh sáng (photon coherence)

Đi xa hơn nữa, Popp đã nghiên cứu riêng người khỏe mạnh và tìm thấy một sự hòa điệu (coherence) tinh tế ở cấp độ lượng tử. Nhưng những loại ánh sáng trong những người bị bệnh là loại gì?
Popp đã thử dùng thiết bị của mình trên một loạt các bệnh nhân ung thư. Trong mọi trường hợp, ánh sáng trong các bệnh nhân đã bị mất những nhịp điệu và chu kỳ tự nhiên cũng như sự hòa điệu của chúng. Các đường thông tin liên lạc nội bộ bị rối loạn. Chúng bị mất kết nối với thế giới. Trong thực tế, ánh sáng của người bệnh đã bị đi ra ngoài cơ thể.
Nhưng trong bệnh đa xơ cứng (Multiple Sclerosis) lại là một trạng thái của dư thừa ánh sáng. Bệnh này đã lấy vào quá nhiều ánh sang vào cơ thể, do đó ức chế khả năng hoạt động của các tế bào của. Quá nhiều sự cộng hưởng sẽ ngăn chặn tính linh hoạt và tính cá thể - như quá nhiều sự cổng hưởng của các bước chân của đoàn quân qua một cây cầu, sẽ làm cho cây cầu sụp đổ. Sự hòa điệu hoàn hảo là một trạng thái tối ưu nằm giữa sự hỗn loạn và trật tự.  Giống như dàn nhạc có quá nhiều thành viên sẽ không còn khả năng ứng biến. Trong thực tế, bệnh nhân MS đang chết đuối trong ánh sáng.
Popp cũng đã kiểm tra những tác động của căng thẳng. Trong trạng thái căng thẳng, tỷ lệ bức xạ biophoton tăng lên - một cơ chế bảo vệ được thiết kế để khôi phục lại trạng thái cân bằng cho bệnh nhân.
Popp bây giờ nhận ra rằng những gì ông đã được thử nghiệm với thậm chí còn vượt xa hơn ở cách chữa bệnh ung thư hoặc sự thay đổi hình thái (morphogenesis). Đây là một mô hình lý thuyết tốt hơn so với học thuyết Tân Darwin hiện nay, để giải thích tất cả các sinh vật đã tiến hóa trên hành tinh này như thế nào. Đó không phải là một hệ thống vốn có lỗi nhưng cuối cùng may mắn ngẫu nhiên xảy ra , nếu DNA sử dụng tần số khác nhau như một công cụ thông tin , điều này cho thấy đó là một hệ thống phản hồi thông tin liên lạc hoàn hảo thông qua sóng mã hoá và chuyển giao thông tin .


Thực phẩm tốt và Biophoton

Popp nhận ra rằng ánh sáng trong cơ thể thậm chí có thể là chìa khóa của sức khỏe và bệnh tật. Trong một thí nghiệm, ông đã so sánh ánh sáng từ trứng của gà mái thả rong với trứng của gà nhốt lồng. Các photon trong loại trứng đầu tiên hòa điệu hơn so với loại trứng thứ hai .
Popp đã tiếp tục sử dụng bức xạ biophoton như một công cụ đo chất lượng của thực phẩm. Các thực phẩm lành mạnh nhất có ánh sáng với cường độ thấp nhất và hòa điệu nhất. Bất kỳ xáo trộn nào của hệ thống cơ thể đều làm tăng sản xuất của các photon. Sức khỏe là một trạng thái của thông tin liên lạc hoàn hảo của hạ nguyên tử (subatomic), và bệnh tật là một trạng thái của sự sụp đổ trong thông tin liên lạc . Chúng ta bị bệnh khi sóng ánh sáng của chúng ta không còn "hòa điệu" nữa.
Bức xạ BioPhoton hiện đang sử dụng một cách  thương mại trong ngành công nghiệp thực phẩm. Khoa học nông nghiệp cũng đang tìm kiếm các bức xạ bio-photon để xác định tính lành mạnh của thực vật nhằm mục đích kiểm soát chất lượng thực phẩm. Biophotonen là một công ty làm việc nhằm phát triển và ứng dụng thực tế của biophotonics. Công trình được dựa trên một loạt các bằng sáng chế. "Biophotonen" giải quyết vấn đề thực tế của ngành công nghiệp thực phẩm, công nghiệp môi trường, mỹ phẩm, vv

Các ứng dụng từ phát hiện của tiến sĩ Popp

Trong những năm 1970, Tiến sĩ Veljko Veljkovic, hiện đang phụ trách Trung tâm Nghiên cứu đa ngành và Kỹ thuật, Viện Khoa học hạt nhân Vinca, cũng phát hiện ra một phương pháp dùng để tiên đoán các chất gây ung thư, trong hàng trăm hoá chất mới được sản xuất bởi ngành công nghiệp hóa chất, bằng cách đo đạc các đặc tính biophotonic và điện tử của các phân tử. Phương pháp này cũng giống như đối với phương pháp dự đoán các chất hữu cơ gây đột biến, hoặc độc hại , và thậm chí cả những chất là kháng sinh , hoặc kìm chế tế bào (tức chất chống ung thư) . Viện Veljkovic ở Belgrade cũng đã hợp tác với các phòng thí nghiệm khác ở châu Âu, để áp dụng phương pháp tương tự để phát hiện ma túy và đặc biệt là để chống bệnh AIDS.

Trị liệu bằng Biophoton


Điều trị Biophoton là ứng dụng chữa bệnh bằng cach chiếu ánh sáng đến các khu vực đặc biệt của da. Ánh sáng, hay hạt photon, được phát ra bởi các thiết bị này được hấp thụ bởi thụ thể quang học (photo-receptor) của da và sau đó, thông qua hệ thống thần kinh của cơ thể, đi đến não, nơi được các photons giúp điều chỉnh cái được gọi là năng lượng sinh học (bio-energy) của con người. Bằng cách kích thích từng khu vực nhất định của cơ thể bằng một liều nhất định của ánh sáng, liệu pháp biophoton có thể giúp giảm đau cũng như hỗ trợ trong quá trình chữa lành các bệnh khác nhau của cơ thể.

Lý thuyết điều trị biophoton được dựa trên công trình của Tiến sĩ Franz Morell và đã được mở rộng bởi công trình của bác sĩ LC Vincent và FA Popp, người đưa ra giả thuyết rằng ánh sáng có thể ảnh hưởng đến sự dao động điện từ, hoặc sóng của cơ thể và điều tiết các hoạt động của enzyme.

Phải mất khoảng 25 năm để Popp thu phục những người chống đối trong cộng đồng khoa học. Dần dần, có một vài nhà khoa học trên thế giới bắt đầu xem xét lại và cho rằng hệ thống thông tin liên lạc của cơ thể có thể là một mạng lưới phức tạp của các cộng hưởng và tần số. Cuối cùng, họ hình thành các Viện Quốc tế về Lý Sinh Học (Biophysics), bao gồm 15 nhóm các nhà khoa học từ các trung tâm quốc tế trên toàn thế giới.

Popp và các cộng sự mới của mình tiếp tục nghiên cứu phát ánh sáng từ nhiều sinh vật cùng loài, đầu tiên là một thử nghiệm với một loại bọ chét nước họ Daphnia. Những gì họ tìm thấy thật đáng kinh ngạc. Với một thiết bị nhân bội hạt quang, cho thấy bọ chét nước hút ánh sáng lẫn nhau. Popp đã thử các thí nghiệm tương tự trên các loài cá nhỏ và đã nhận được kết quả tương tự . Các thiết bị nhân bội hạt quang cho thấy hoa hướng dương giống như một máy hút bụi sinh học, nó di chuyển theo hướng của các photon phát ra từ mặt trời nhất. Thậm chí có loài vi khuẩn nuốt photon từ môi trường quanh chúng! 

Cách thông tin liên lạc giữa các sinh vật 

Do đó, Popp chợt nhận ra rằng những bức xạ còn có một mục đích bên ngoài cơ thể . Sóng cộng hưởng không chỉ được sử dụng để giao tiếp bên trong cơ thể, nhưng còn sử dụng để thông tin giữa những sinh vật. Hai sinh vật khỏe mạnh tham gia vào hiện tượng, mà ông gọi là “mút photon” (photo suckling), bằng cách trao đổi các hạt photon. Popp nhận ra rằng sự trao đổi này có thể mở khóa bí mật của một số câu hỏi hóc búa dai dẳng nhất trong thế giới động vật: làm thế nào các đàn cá hoặc các đàn chim tạo ra sự phối hợp nhóm một cách hoàn hảo và tức thời.

Sự phối hợp kỳ lạ của một đàn cá
Sự phối hợp kỳ lạ của một đàn chim


Nhiều thí nghiệm về khả năng dẫn đường của động vật chứng minh rằng nó không có gì liên hệ với sự quen đường, mùi hương hoặc thậm chí với điện từ trường của trái đất, mà chính là một số hình thức giao tiếp im lặng và vô hình, ngay cả khi các động vật cách nhau với hàng dặm khoảng cách.
Đối với con người, nếu chúng ta có thể hấp thu các photon của các sinh vật khác, chúng ta cũng có thể có thể sử dụng thông tin từ người khác để sửa ánh sáng của chúng ta nếu nó đã lệch lạc. 


Sự Chết được truyền qua kênh "ánh sáng"huyền bí

Một số thí nghiệm vô cùng thú vị được thực hiện bởi VP Kaznacheyev và cộng sự liên quan đến việc cái chết có thể truyền đi bởi kênh ánh sáng huyền bí.


Có hai mẫu, gồm các tế bào được lấy từ cùng một môi trường nuôi dưỡng. Hai mẫu được đặt hai bên, ngăn cách nhau bằng một cửa sổ . Tất cả đều ở trong một phòng tối không có ánh sáng.
Các tế bào trong mẫu số (1) bị làm chết bởi các tác nhân như vi trùng, siêu vi trùng, độc tố, hóa, chất, tia xạ v.v..
Nếu cửa sổ được làm bằng thủy tinh thông thường, mẫu thứ hai (2) vẫn sống và khỏe mạnh. Nhưng nếu cửa sổ được làm bằng thạch anh, thì các tế bào của mẫu thứ hai bị bệnh và chết với các triệu chứng tương tự như các mẫu số (1).
Sự khác biệt lớn giữa truyền kính cửa sổ bằng kính và cửa sổ bằng thạch anh là:
Chất liệu kính là tương đối mờ với tia cực tím và hồng ngoại.  Trong khi thạch anh truyền cả tia cực tím và hồng ngoại tốt. Do đó kính là một chất kiềm chế của kênh huyền bí , trong khi thạch anh thì không.
[V.P. Kaznacheyev et al, "Distant Intercellular Interactions in a System of Two Tissue Cultures," Psychoenergetic Systems, Vol. 1, No. 3, March 1976, pp 141-142]


Cây lá có khả năng trị liệu

Popp đã bắt đầu thử nghiệm với ý tưởng như vậy. Nếu hóa chất gây ung thư có thể làm thay đổi lượng bức xạ biophoton của cơ thể , thì có thể có các chất khác có thể mang lại thông tin liên lạc tốt hơn. Popp tự hỏi liệu có chiết xuất của cây lá nào đó có thể thay đổi tính chất của bức xạ biophoton từ tế bào ung thư, giúp cho chúng nối lại thông tin liên lạc với phần còn lại của cơ thể. Ông bắt đầu thử nghiệm với một số chất không độc hại, nhằm để điều trị ung thư hiệu quả. Trừ một trường hợp, còn lại tất cả các chất này chỉ làm tăng photons từ các tế bào khối u, thậm chí còn làm nguy hiểm hơn cho cơ thể.
Một thử nghiệm thành công duy nhất là với cây tầm gửi (sender mistletoe), cây này giúp cơ thể điều chỉnh bức xạ photon của các tế bào khối u trở lại bình thường. Một trong rất nhiều trường hợp của Popp, là một người phụ nữ vào tuổi ba mươi bị ung thứ vú và ung thư âm đạo. Popp đã thấy phương thuốc cây tầm gửi đã tạo ra sự hòa điệu photon trong các mẫu mô ung thư. Với sự đồng ý của bác sĩ trị liệu, người phụ nữ dừng mọi điều trị và  chỉ sử dụng chiết xuất từ ​​cây tầm gửi. Sau một năm, tất cả các xét nghiệm của cô hầu như trở lại bình thường.

Đối với Popp, phương pháp trị liệu “vi lượng đồng căn” (Homeopathy) là một ví dụ khác của hiện tượng “hút photon” (photon suckling).  Ông đã bắt đầu nghĩ về nó như một “cộng hưởng hấp thụ” (resonance absorber). Homoeopathy dựa trên các quan điểm cho rằng cái giống nhau trị lành cái giống nhau. Một chiết xuất từ thực vật có sức mạnh để gây phát ban trong cơ thể, phải được pha rất loãng khi sử dụng để tránh tình trạng phát ban đó. Đối với một tần số gây hại trong cơ thể, cái có thể tạo ra các triệu chứng nhất định, thì dung dịch trị liệu phải được pha loãng, sao cho có thể tạo ra các triệu chứng tương để tạo ra cùng tần số đó. Giống như một âm thoa cộng hưởng, một giải pháp phù hợp homoeopathic có thể thu hút và sau đó hấp thụ các dao động bất thường, giúp cơ thể  trở lại sức khỏe bình thường.

Popp nghĩ rằng tín hiệu điện từ của phân tử, thậm chí có thể giải thích được cách trị liệu bằng châm cứu. Theo Y học cổ truyền Trung Quốc, cơ thể con người có một hệ thống kinh tuyến chạy sâu trong các mô.  Năng lực vô hình mà người Trung Quốc gọi là Khí hoặc lực lượng cuộc sống chạy qua hệ thống các kinh này. Các “Khí” được cho là đi vào cơ thể thông qua các điểm châm cứu và chảy vào các cấu trúc cơ quan sâu hơn (mà không tương ứng với những bộ phận trong sinh học phương Tây), để cung cấp năng lượng (hoặc lực lượng cuộc sống). Bệnh xảy ra khi năng lượng này bị chặn tại bất kỳ điểm nào dọc theo hệ kinh mạch. Theo Popp, hệ thống kinh tuyến truyền sóng năng lượng cụ thể cho từng khu vực cụ thể của cơ thể.
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng rất nhiều các điểm châm cứu có một điện trở giảm đáng kể so với vùng da xung quanh (khoảng 10 kg - ohms và 3 mega – ohms). Bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình Tiến sĩ Robert Becker, người đã thực hiện rất nhiều nghiên cứu về các lĩnh vực Điện Từ trong cơ thể, đã thiết kế một thiết bị ghi âm điện cực đặc biệt mà cuộn dọc theo cơ thể như một máy cắt bánh pizza. Nhiều nghiên cứu của Becker đã cho thấy lượng điện trên từng người, trong những người được kiểm tra, tương ứng với các điểm thuộc kinh mạch Trung Quốc .
[ Trích từ The Field : Các Quest cho các lực lượng bí mật của vũ trụ , bởi Lynne McTaggart ]

Ánh sáng có trong ý thức con người

Nghiên cứu mới nhất này cho những người muốn tìm hiểu về ranh giới giữa hai lãnh vực nghiên cứu và lý thuyết về photon. Trong một bài báo mang tính đột phá với tiêu đề dài "Điều phối sự sút giàm về mức hòa điệu lượng tử trong các vi ống của não bộ: Các ' Orch OR' mô hình cho ý thức", Stuart Hameroff và Roger Penrose, mô tả não như là một máy tính lượng tử có cấu trúc chính là các vi ống cytoskeletal và nhiều cấu trúc khác nữa trong mỗi tế bào thần kinh não bộ.
Nếu xem xét một tế bào thần kinh, bạn sẽ thấy rằng có rất nhiều ống rỗng xung quanh sợi trục. Các vi ống trước đây được coi là một loại giàn giáo để hỗ trợ các sợi thần kinh. Nhưng bây giờ, các vi ống này đang được nghi ngờ rằng chúng có thể là kiến ​​trúc của ý thức của con người.
Các đặc tính đặc biệt của các vi ống làm cho chúng thích hợp với hiệu ứng lượng tử, bao gồm cấu trúc lưới giống dạng tinh thể, lõi bên trong rỗng, tổ chức các chức năng tế bào và có khả năng xử lý tiến trình thông tin. Theo các nhà nghiên cứu, kích thước của chúng có thiết kế hoàn hảo để truyền tải các photon trong khoảng phổ của tia cực tím.



[ Ảnh trên: ] Sơ đồ khu vực trung tâm của tế bào thần kinh (axon xa và các đuôi gai không được hiển thị) , cho thấy các vi ống dàn trải song song, kết nối với nhau bằng bản MAPs. Ống vi thể trong sợi trục có hình dài và liên tục, trong khi ở nhánh gai chúng bị gián đoạn và có phân cực hỗn hợp. Các protein liên kết giúp kết nối các vi ống đến màng protein bao gồm các thụ thể trên đuôi gai .
Thường được xem như là “bộ xương của tế bào”, các vi ống và các cấu trúc cytoskeletal khác đã xuất hiện để đảm nhiệm hết việc xử lý các quá trình giao tiếp và thông tin. Mô hình lý thuyết đã thử trình bày cách làm thế nào mà sự thay đổi hình dạng của các vi ống (tubulins) trong mạng vi ống lattices  có thể tương tác với các vi ống lân cận để trình hiện, truyền đi và xử lý thông tin, như trong một hệ thống máy tính, có tính “tự động tế bào” ở cấp độ phân tử .
[Hameroff và Watt , 1982; Rasmussen và cộng sự, 1990; Hameroff và cộng sự , 1992]

Trong bài báo của họ, Hameroff và Penrose trình bày một mô hình liên kết giữa các vi ống với ý thức (consciousness) bằng cách vận dụng lý thuyết lượng tử. Theo mô hình của họ, sự hòa điệu lượng tử (quantum coherence) xuất hiện, rồi bị cô lập trong các vi ống ở não cho đến khi đạt tới một ngưỡng tương ứng với lực hấp dẫn lượng tử. Kết quả là một sự tự sụp đổ của hòa điệu lượng tử. Ngay lúc đó xảy ra một sự kiện gọi là "bây giờ". Trình tự của những sự kiện đó tạo ra một dòng chảy của thời gian, và ý thức.

Đừng lo lắng nếu bạn không thể hiểu được điều này. Vì thật sự rất nặng nề trong khi đọc tài liệu này. Nhưng nhờ ở tài liệu này, ta biết về sự tồn tại của các photon bên trong cơ thể. Ánh sáng bên trong là có thực và nó chính là cơ sở của hầu hết tất cả các chức năng của tế bào và của các hệ thống cơ thể của con người.

Phạm Doãn
Tổng hợp từ các tài liệu trên Internet

------------------------

Chú thích:

Bức xạ hay phát xạ, chiếu xạ là hiện tượng truyền băng lượng dưới dạng sóng
Hòa điệu photon: photon coherence
Hòa điệu lượng tử: quantum coherence
Chữ "hòa điệu" trong bài viết này được dịch từ chữ coherence.
Coherence là một thuật ngữ được dùng trong nhiều chuyên ngành chỉ sự hòa điệu, hòa hợp, kết dính.
Vài hình ảnh diễn tả ý nghĩa "hòa điệu" của các sóng, photon trong bài viết:




Fritz Albert Popp

Fritz Popp was born in 1938 in Frankfurt Germany.
- Experimental Physics (1966, University Würzburg)
- Röntgen-Prize of the University Würzburg,
- Ph.D. in Theoretical Physics (1969, University Mainz).
- Biophysics and Medicine (1973, University Marburg).
Prof. Popp rediscovered and made the first extensive physical analysis of "Biophotons". He was awarded Professorship (H2) by the Senate of Marburg University, and lectured at Marburg University from 1973 to 1980. He was Head of a research group in the Pharmaceutical Industry in Worms from 1981 to 1983 and Head of a research group at the Institute of Cell Biology (University Kaiserslautern) from 1983 to 1986 and of another research group at the Technology Center in Kaiserslautern.
Dr. Popp became an Invited Member of the New York Academy of Sciences and an Invited Foreign Member of the Russian Academy of Natural Sciences (RANS). Popp is the founder of the International Institute of Biophysics in Neuss (1996), 


Biophoton
A biophoton is a photon of non-thermal origin in the visible and ultraviolet spectrum emitted from a biological system. Wikipedia

Fritz-Albert Popp is the inventor of biophoton theory, and has coined the term biophotons which refers to coherent photons emitted from biological organisms. biontologyarizona.com

. . . the tenacity of Anna Gurwitsch, together with the development of the photon counter multiplier, resulted in the confirmation of the phenomenon of biophotons in 1962. Wikipedia
Biophotons may be detected with photomultipliers or by means of an ultra low noise CCD camera to produce an image, using an exposure time of typically 15 minutes for plant materials. Wikipedia
Explore: Photomultiplier