Vào năm 1970, một nhà lý sinh lý thuyết (theoretical biophysicist) tại Đại học Marburg ở Đức, Fritzz-Albert Popp, giảng dạy X quang - sự tương tác của bức xạ điện từ (EM) trên các hệ thống sinh học.
Ông đã kiểm tra hai phân tử gần như giống hệt nhau: benzo [a] pyrene, một hydrocarbon đa vòng, từng được biết đến là một trong những chất gây ung thư nguy hiểm nhất đối với con người , và song sinh của nó Benzo [ e] pyrene (có cấu trúc phân tử khác biệtchút ít so với benzo [a] ). Popp đã chiếu sáng cả hai phân tử với tia cực tím (UV) trong mục đích tìm ra những gì đã làm hai phân tử đó trở nên gần giống với nhau như vậy!
Tại sao thí nghiệm với ánh sáng tia cực tím?
Popp đã chọn nghiện cứu với ánh sáng tia cực tím.
Sở dĩ thế, vì trước đó, nhà sinh vật học Nga tên Alexander Gurwitsch, trong khi khảo sát củ hành tây vào năm 1923, phát hiện ra rằng: rễ củ hành có thể kích thích một rễ củ hành khác ở cạnh đó, nếu hai rễ cây được đựng trong các chậu thủy tinh bằng thạch anh. Trái lại sẽ không có tương tác gì cả nếu chúng được đặt trong các chậu thủy tinh silic. Ta thấy có sự khác biệt ở đây là silicon lọc bước sóng tia cực tím của ánh sáng trong khi thạch anh thì để tia cực tím đi qua! Gurwitsch đã giả thuyết rằng rễ củ hành có thể giao tiếp với nhau bằng ánh sáng bức xạ của tia cực tím.
anh
Kết quả những gì Popp phát hiện ra là:
- Benzo [a] pyrene (các phân tử tạo ung thư) hấp thụ ánh sáng cực tím, sau đó thay đổi và phát lại ở một tần số hoàn toàn khác - đó là một ánh sáng " Nhiễu loạn” (Scrambler) .
- Benzo [ e] pyrene (vô hại đối với con người), cho phép ánh sáng tia cực tím để đi qua nó mà không làm thay đổi ánh sáng này!
Popp lúng túng bởi sự khác biệt này, và tiếp tục thử nghiệm với tia UV và các hợp chất khác. Ông đã thực hiện thử nghiệm của ông trên 37 hóa chất khác nhau, một số gây ung thư, một số không. Sau một thời gian, ông đã có thể tiên đoán được các chất nào có thể gây ung thư. Các hợp chất gây ung thư đều hấp thu ánh sáng tia cực tím, sau đó làm thay đổi hoặc thúc đẩy sự thay đổi tần số tia cực tím đó.
Có một đặc tính kỳ lạ của các hợp chất: mỗi chất gây ung thư chỉ phản ứng với ánh sáng ở một bước sóng cụ thể - 380 nm ( nanomet) trong phạm vi cực tím . Popp tự hỏi tại sao một chất gây ung thư sẽ là một ánh sáng “nhiễu loạn”. Ông bắt đầu đọc các tài liệu khoa học cụ thể về các phản ứng sinh học của con người, và đã xem qua thông tin về một hiện tượng gọi là "sửa chữa quang học”.
Sửa chữa bằng ánh sáng (Photo-repaire)
Hiện tượng này được biết từ các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm sinh học. Nếu bạn dùng một tia ánh sáng cực tím để hủy diệt 99 phần trăm các tế bào, kể cả DNA của nó, thì bạn vẫn có thể sửa chữa các thiệt hại (gần như hoàn toàn) của các tế bào này chỉ trong một ngày, bằng cách chiếu sáng các tế bào với cùng bước sóng, nhưng với một cường độ yếu hơn nhiều. Như vậy một ánh sang cực tím phá hủy hay sửa chữa tế bào, chỉ khác nhau ở cường độ mà thôi! Cho đến ngày nay, các nhà khoa học vẫn không thấu hiểu hiện tượng được gọi là sửa chữa quang học, nhưng không có ai phủ nhận nó.
bệnh khô da xeroderma pigmentosum |
Popp cũng biết rằng những bệnh nhân bị bệnh khô da xeroderma pigmentosum (Xơ cứng da tăng sắc tố)] cuối cùng chết vì ung thư da bởi vì hệ thống sửa chữa quang học của họ không thể sửa chữa những hư hỏng do ánh sáng mặt trời. Ông cũng bị ấn tượng bởi thực tế là “sửa chữa quang học” hoạt động hiệu quả nhất tại bước sóng 380 nm – Đây cũng chính là tần số mà các hợp chất gây ung thư có phản ứng để gây nhiễu loạn.
Đến đây, Popp đã có thể thực hiện bước nhảy vọt trong suy luận của mình. Nếu chất gây ung thư chỉ phản ứng với tần số này, nó phải có liên kết với sửa chữa quang học. Nếu vậy, điều này có nghĩa là phải có một số loại ánh sáng trong cơ thể chịu trách nhiệm về sửa chữa quang học. Một hợp chất gây ung thư vì nó khóa (block) ánh sáng này để tạo ra nhiễu loạn, khiến cơ chế sửa chữa quang học không làm việc được nữa. Điều này có vẻ hợp lý, nhưng thực sự nó có đúng hay không?
Ánh sáng bên trong cơ thể
Popp đã hơi bối rối khi khám phá điều này. Ông đã viết về nó trong một bài báo và một tạp chí y khoa có uy tín đã đồng ý xuất bản nó.
Không lâu sau đó, Popp đã gặp một sinh viên tên là Ruth Bernhard, người nhờ cậy Popp hướng dẫn cho luận án tiến sĩ của mình. Popp nói với Ruth ông sẽ nhận lời, nếu sinh viên này có thể khẳng định rằng ánh sáng được phát ra từ cơ thể con người .
Cuộc kết hợp này là hoàn toàn tình cờ với Popp, vì Ruth vốn là một nhà vật lý thực nghiệm giỏi. Ruth nghĩ ý tưởng của Popp là vô lý, và ngay lập tức bắt tay vào việc thiết bị xây dựng để chứng minh giả thuyết của Popp…là sai!
Trong vòng hai năm, Ruth đã xây dựng một thiết bị giống như một máy dò tia X lớn, trong đó sử dụng một bộ phận làm tăng bội các hạt photon để có thể đếm ánh sáng một cách cụ thể từng photon một. Thậm chí cho đến ngày nay, nó vẫn là một trong những thiết bị tốt nhất trong lĩnh vực này. Máy đã phải rất nhạy để có thể đo lường những tia mà Popp đã tiên lượng là sẽ phát ra rất yếu ớt.
Trong một bộ phim tài liệu cũ được thực hiện trong phòng thí nghiệm tại Viện Quốc tế về Lý Sinh Học, Tiến sĩ Popp mở một cái hộp chỉ to bằng một hộp bánh mì . Ông đặt một cái lá mới cắt còn tươi và một que diêm gỗ trong một hộp nhựa, rồi đặt vào trong một phòng tối được đóng chặt cửa. Ngay sau khi mở thiết bị photo-multiplier, hình ảnh xuất hiện trên một màn hình máy tính. Que diêm có màu đen trong khi ánh sáng màu xanh phát ra từ chiếc lá được nhìn thấy rất rõ ràng.
Tiến sĩ Popp thốt lên: "Bây giờ chúng ta đã biết, con người thực chất là một thực thể của ánh sáng."
Các lá phát xạ ánh sáng của biophoton (bên phải) |
Năm 1976, họ đã sẵn sàng cho thử nghiệm đầu tiên với cây dưa chuột. Thiết bị của họ cho thấy các photon, tức sóng ánh sáng, của một ánh sang có cường độ cao đáng ngạc nhiên đã được phát ra từ hột của cây dưa. Để tìm hiểu ánh sáng phải làm gì với một hiệu ứng quang hợp, họ quyết định làm thực nghiệm tiếp theo - với khoai tây – bằng cách trồng cây giống trong bóng tối. Lần này, khi các cây con được đặt trong thiết bị gia bội photon, họ đã ghi nhận được một cường độ ánh sang phát ra cao hơn nữa. Ngoài ra, họ còn thấy các photon trong các hệ thống sống còn hòa điệu hơn những gì họ từng tiên lượng.
Popp đã bắt đầu suy nghĩ về ánh sáng trong tự nhiên. Ánh sáng đã có mặt trong thực vật trong quá trình quang hợp. Khi chúng ta ăn thức ăn thực vật, Popp nghĩ , chúng ta đã đưa các photon vào cơ thể và lưu trữ chúng.
Khi chúng ta ăn bông cải xanh và tiêu hóa nó, nó được chuyển hóa thành carbon dioxide (CO2) và nước, cùng với ánh sáng được lưu trữ từ mặt trời và quá trình quang hợp. Chúng ta trích xuất CO2 và thải bỏ nước, nhưng ánh sáng, một dạng sóng điện từ (electro-magnetic), phải được lưu trữ. Khi đ vào cơ thể, năng lượng của các photon phân tán, rồi phân phối trên toàn bộ phổ (spectrum) tần số điện từ, từ thấp nhất đến cao nhất.
Năng lượng này là động lực cho tất cả các phân tử trong cơ thể của chúng ta. Trước khi bất kỳ phản ứng hóa học có thể xảy ra, có ít nhất là một điện tử phải được kích hoạt bởi một photon có bước sóng nhất định và có đủ năng lượng .
Các nhà hóa sinh đoạt giải Nobel là Lehninger đề cập đến trong sách giáo khoa của ông rằng một số phản ứng trong tế bào sống xảy ra nhanh hơn khá nhiều so với những gì tương ứng với nhiệt độ 37C. Lời giải thích là dường như cơ thể chúng ta cố tạo ra các phản ứng hóa học qua trung gian các rung động điện từ (biophotons )
Ánh sáng (photon) kiểm soát tất cả mọi thứ trong tế bào
Photon vận hành các quá trình của cơ thể giống như một nhạc trưởng điều phố các nhạc cụ cá nhân thành âm thanh tập thể. Ở các tần số khác nhau, các photon thực hiện các chức năng khác nhau. Popp thấy rằng các phân tử trong các tế bào chỉ phản ứng với các tần số nhất định, và một loạt các rung động từ các photon gây ra một loạt các tần số trong các phân tử khác của cơ thể.
Lý thuyết này đã được hỗ trợ bởi Tiến sĩ Veljko Veljković hiện đang phụ trách Trung tâm Nghiên cứu đa ngành và Kỹ thuật , Viện Khoa học hạt nhân Vinca. Bà đã dám đặt một câu hỏi làm các nhà sinh học tế bào bối rối mãi mãi:
"Điều gì kích hoạt hàng chục ngàn các loại phân tử khác nhau trong cơ thể để nhận ra mục tiêu cụ thể của chúng?"
Quá trình sống phụ thuộc vào sự tương tác đặc thù giữa các phân tử chọn lọc, và điều đó cũng đúng đối với biến dưỡng cơ bản (basic metabolism) xảy ra ngay ở các trạng thái cảm xúc tinh tế. Nó giống như việc cố gắng để tìm một người bạn trong bóng tối của phòng khiêu vũ rất đông người.
Hình ảnh thông thường của một tế bào hiện nay được nường tượng như là một túi của các phân tử hòa tan trong nước. Thông qua sự xúc chạm tình cờ - va chạm ngẫu nhiên - những phân tử có hình dạng tương ứng “ổ khóa và chìa khóa” kết hợp với nhau để các phản ứng sinh hóa thích hợp có thể xảy ra. Lý thuyết về mô hình “Ổ khóa và chìa khóa" này hiện nay đã được cải tiến để linh hoạt và thực tế hơn. Đó là cơ chế "gây ra phù hợp '. Giả thuyết cho phép mỗi phân tử có thể tự thay đổi hình dạng một chút để phù hợp tốt hơn sau khi chúng nhận được các liên lạc. Ngoài ra ý tưởng chính (Khóa và Chìa) vẫn giữ nguyên.
Phải giải thích như thế nào khi các enzym có thể nhận ra chất đặc hiệu của chúng, làm thế nào các kháng thể trong hệ thống miễn dịch có thể bám vào những kẻ xâm lược và giải giáp vũ khí của chúng. Nói rộng hơn, đó là cách các protein có thể " cập bến " với các protein đối tác khác nhau, hoặc bám vào axit nucleic cụ thể để kiểm soát biểu hiện của gen , hoặc lắp ráp thành các ribosome loại dùng để giải mã protein, hoặc lắp ráp các tổ hợp đa phân tử sửa đổi các tin nhắn di truyền trong nhiều cách khác nhau. Nhưng với hàng ngàn - thậm chí hàng trăm ngàn phản ứng xảy ra mỗi giây chỉ trong một tế bào này có vẻ đã gạt bỏ cách giải thích bằng lý thuyết "cơ học" ra xa.
Dường như giải thích phù hợp nhất là bằng cách nào đó mỗi phân tử sẽ phát ra một trường điện từ duy nhất có thể "cảm nhận" được những phân tử thích hợp. Nó giống như một "vũ điệu" trong môi trường của các tế bào và các phân tử trong tế bào cùng di chuyển nhịp nhàng với vũ điệu đó. Âm nhạc ở đây được cung cấp bởi các photon sinh học (biophoton).
Các tế bào liên lạc và trao đổi thông tin bằng các biophoton |
" Veljkovic và Cosic cho rằng các tương tác giữa các phân tử là điện trong tự nhiên, và tương tác này diễn ra trên một khoảng cách lớn hơn so với kích thước của các phân tử. Cosic sau đó giới thiệu ý tưởng về “tương tác điện từ trường năng động” (dynamic electromagnetic field). Các phân tử nhận ra mục tiêu cụ thể của mình (và ngược lại) bằng cộng hưởng điện từ. Nói cách khác, các phân tử gửi tần số cụ thể của sóng điện từ. Đây là cách không chỉ cho phép chúng "nhìn thấy" và " nghe" lẫn nhau, vì cả hai trạng thái photon và phonon cùng xuất hiện trong sóng điện từ. Chúng không những ảnh hưởng lẫn nhau từ một khoảng cách và thu hút lẫn nhau một cách không thể cưỡng lại được nếu rung động lệch phase "
(Theo The Real Bioinformatics Revolution: Protein and nucleic acids nucleic singing to one another (available report@i-sis.org.uk)
"Có khoảng 100.000 phản ứng hóa học xảy ra trong mọi tế bào trong mỗi giây. Các phản ứng hóa học chỉ có thể xảy ra nếu các phân tử tương ứng được kích thích bởi một photon ... Sau khi kích hoạt một phản ứng, photon lại trở về môi trường cũ của nó và như thế nó lại sẵn sang cho nhiều phản ứng khác nữa ... Như vậy, dường như.chúng ta đang bơi trong một đại dương của ánh sáng."
Popp cho là sự phát xạ biophoton (biophoton emission) đã hình thành một hệ thống truyền thông lý tưởng cho việc chuyển giao thông tin đến nhiều tế bào trên cơ thể. Nhưng câu hỏi quan trọng nhất vẫn là : nơi được Ánh sáng đã đến từ đâu?
Được biết, khi ethidium bromide được cho vào các mẫu DNA , nó len giữa các cặp cơ bản của chuỗi xoắn kép, khiến cặp chuỗi DNA tách rời ra. Sau khi sử dụng hóa chất, họ đo ánh sáng phát ra từ mẫu. Popp thấy rằng nếu nồng độ ethidium càng lớn , càng có nhiều DNA tách ra và cường độ ánh sang phát ra càng mạnh. Ngược lại, khi sử dụng ethidium ít hơn, ánh sáng cũng phát ra ít hơn.
Popp cũng phát hiện ra rằng DNA có thể gửi một loạt các tần số, một số trong đó dường như có liên quan đến những chức năng nhất định. Nếu DNA lưu trữ ánh sáng này, nó sẽ phát ra thêm ánh sáng một cách tự nhiên bằng cách giải nén nguồn lưu trữ.
Các nghiên cứu chứng tỏ cho Popp rằng một trong những nguồn quan trọng nhất của ánh sáng và sự phát xạ biophoton là DNA. DNA là như âm thoa bậc thầy của cơ thể. Nó sẽ rung lên một tần số cụ thể và các phân tử nhất định nào đó sẽ rung theo. Ông nói rằng điều này có thể giúp ông tìm ra các mối liên kết còn thiếu trong lý thuyết DNA hiện tại và có lẽ là điều kỳ lạ vĩ đại nhất trong sinh học của con người – Làm thế nào một tế bào duy nhất có thể biến thành một con người hoàn chỉnh!
Các tế bào có thể "nói chuyện" với nhau
Khi bạn bị một vết cắt hoặc vết xước trên da, các tế bào bị tổn thương, bằng cách nào đó, báo hiệu với các tế bào khỏe mạnh xung quanh, để bắt đầu tái tạo bản sao của mình để hàn bít lại chỗ da hở. Khi da trở lại bình thường, một tín hiệu được gửi đến các tế bào để nói với chúng rằng phải ngưng lại qui trình tái tạo. Các nhà khoa học đã rất phân vân về tính chính xác của qui trình này .
Với lý thuyết bức xạ biophoton, Popp tin rằng ông đã có thể trả lời cho vấn đề này. Hiện tượng điều hợp và thông tin liên lạc này chỉ có thể xảy ra trong một hệ thống thống nhất (holistic system) với một nhạc trưởng trung tâm. Những thí nghiệm của Popp cho thấy với những bức xạ ánh sáng yếu là cũng đủ cho qui trình sửa chữa của cơ thể. Bức xạ phải có cường độ thấp bởi vì các thông tin liên lạc diễn ra trong mức lượng tử rất nhỏ bên trong tế bào. Cường độ cao hơn sẽ tạo ra quá nhiều "độ nhiễu" làm mất tính hiệu quả.
Số lượng photon phát ra dường như có liên quan đến mức độ tiến hóa của sinh vật- Các sinh vật càng phức tạp thì các photon được phát ra càng ít hơn . Động vật và thực vật thô sơ có xu hướng phát ra 100 photons/cm2/sec ở bước sóng 200-800 nm, tương ứng với một tần số rất cao của sóng điện từ trong phổ ánh sáng có thể nhìn thấy được. Trong khi con người chỉ phát ra 10 photons/cm2/sec, tại cùng tần số.
Trong một loạt các nghiên cứu, Popp đã dùng một người trợ lý. Đó là một phụ nữ trẻ khỏe mạnh 27 tuổi - ngồi trong phòng mỗi ngày liên tục trong chín tháng, để ông đã đọc photon phát ra từ bàn tay và trán của cô ta. Popp sau đó phân tích các dữ liệu và ngạc nhiên phát hiện ra rằng lượng bức xạ ánh sáng tuân theo mô hình cố định - nhịp sinh học 7, 14 , 32 , 80 và 270 ngày - và mẫu tương tự như vậy cũng đã được ghi nhận theo ngày hoặc đêm, theo tuần và theo tháng. Như thể, cơ thể đã tuân theo nhịp sinh học của riêng mình và theo nhịp của thế giới tự nhiên!
Ung thư là mất đi sự hòa điệu của ánh sáng (photon coherence)
Đi xa hơn nữa, Popp đã nghiên cứu riêng người khỏe mạnh và tìm thấy một sự hòa điệu (coherence) tinh tế ở cấp độ lượng tử. Nhưng những loại ánh sáng trong những người bị bệnh là loại gì?
Popp đã thử dùng thiết bị của mình trên một loạt các bệnh nhân ung thư. Trong mọi trường hợp, ánh sáng trong các bệnh nhân đã bị mất những nhịp điệu và chu kỳ tự nhiên cũng như sự hòa điệu của chúng. Các đường thông tin liên lạc nội bộ bị rối loạn. Chúng bị mất kết nối với thế giới. Trong thực tế, ánh sáng của người bệnh đã bị đi ra ngoài cơ thể.
Nhưng trong bệnh đa xơ cứng (Multiple Sclerosis) lại là một trạng thái của dư thừa ánh sáng. Bệnh này đã lấy vào quá nhiều ánh sang vào cơ thể, do đó ức chế khả năng hoạt động của các tế bào của. Quá nhiều sự cộng hưởng sẽ ngăn chặn tính linh hoạt và tính cá thể - như quá nhiều sự cổng hưởng của các bước chân của đoàn quân qua một cây cầu, sẽ làm cho cây cầu sụp đổ. Sự hòa điệu hoàn hảo là một trạng thái tối ưu nằm giữa sự hỗn loạn và trật tự. Giống như dàn nhạc có quá nhiều thành viên sẽ không còn khả năng ứng biến. Trong thực tế, bệnh nhân MS đang chết đuối trong ánh sáng.
Popp cũng đã kiểm tra những tác động của căng thẳng. Trong trạng thái căng thẳng, tỷ lệ bức xạ biophoton tăng lên - một cơ chế bảo vệ được thiết kế để khôi phục lại trạng thái cân bằng cho bệnh nhân.
Popp bây giờ nhận ra rằng những gì ông đã được thử nghiệm với thậm chí còn vượt xa hơn ở cách chữa bệnh ung thư hoặc sự thay đổi hình thái (morphogenesis). Đây là một mô hình lý thuyết tốt hơn so với học thuyết Tân Darwin hiện nay, để giải thích tất cả các sinh vật đã tiến hóa trên hành tinh này như thế nào. Đó không phải là một hệ thống vốn có lỗi nhưng cuối cùng may mắn ngẫu nhiên xảy ra , nếu DNA sử dụng tần số khác nhau như một công cụ thông tin , điều này cho thấy đó là một hệ thống phản hồi thông tin liên lạc hoàn hảo thông qua sóng mã hoá và chuyển giao thông tin .
Thực phẩm tốt và Biophoton
Popp nhận ra rằng ánh sáng trong cơ thể thậm chí có thể là chìa khóa của sức khỏe và bệnh tật. Trong một thí nghiệm, ông đã so sánh ánh sáng từ trứng của gà mái thả rong với trứng của gà nhốt lồng. Các photon trong loại trứng đầu tiên hòa điệu hơn so với loại trứng thứ hai .
Popp đã tiếp tục sử dụng bức xạ biophoton như một công cụ đo chất lượng của thực phẩm. Các thực phẩm lành mạnh nhất có ánh sáng với cường độ thấp nhất và hòa điệu nhất. Bất kỳ xáo trộn nào của hệ thống cơ thể đều làm tăng sản xuất của các photon. Sức khỏe là một trạng thái của thông tin liên lạc hoàn hảo của hạ nguyên tử (subatomic), và bệnh tật là một trạng thái của sự sụp đổ trong thông tin liên lạc . Chúng ta bị bệnh khi sóng ánh sáng của chúng ta không còn "hòa điệu" nữa.
Bức xạ BioPhoton hiện đang sử dụng một cách thương mại trong ngành công nghiệp thực phẩm. Khoa học nông nghiệp cũng đang tìm kiếm các bức xạ bio-photon để xác định tính lành mạnh của thực vật nhằm mục đích kiểm soát chất lượng thực phẩm. Biophotonen là một công ty làm việc nhằm phát triển và ứng dụng thực tế của biophotonics. Công trình được dựa trên một loạt các bằng sáng chế. "Biophotonen" giải quyết vấn đề thực tế của ngành công nghiệp thực phẩm, công nghiệp môi trường, mỹ phẩm, vv
Các ứng dụng từ phát hiện của tiến sĩ Popp
Trong những năm 1970, Tiến sĩ Veljko Veljkovic, hiện đang phụ trách Trung tâm Nghiên cứu đa ngành và Kỹ thuật, Viện Khoa học hạt nhân Vinca, cũng phát hiện ra một phương pháp dùng để tiên đoán các chất gây ung thư, trong hàng trăm hoá chất mới được sản xuất bởi ngành công nghiệp hóa chất, bằng cách đo đạc các đặc tính biophotonic và điện tử của các phân tử. Phương pháp này cũng giống như đối với phương pháp dự đoán các chất hữu cơ gây đột biến, hoặc độc hại , và thậm chí cả những chất là kháng sinh , hoặc kìm chế tế bào (tức chất chống ung thư) . Viện Veljkovic ở Belgrade cũng đã hợp tác với các phòng thí nghiệm khác ở châu Âu, để áp dụng phương pháp tương tự để phát hiện ma túy và đặc biệt là để chống bệnh AIDS.
Trị liệu bằng Biophoton
Điều trị Biophoton là ứng dụng chữa bệnh bằng cach chiếu ánh sáng đến các khu vực đặc biệt của da. Ánh sáng, hay hạt photon, được phát ra bởi các thiết bị này được hấp thụ bởi thụ thể quang học (photo-receptor) của da và sau đó, thông qua hệ thống thần kinh của cơ thể, đi đến não, nơi được các photons giúp điều chỉnh cái được gọi là năng lượng sinh học (bio-energy) của con người. Bằng cách kích thích từng khu vực nhất định của cơ thể bằng một liều nhất định của ánh sáng, liệu pháp biophoton có thể giúp giảm đau cũng như hỗ trợ trong quá trình chữa lành các bệnh khác nhau của cơ thể.
Lý thuyết điều trị biophoton được dựa trên công trình của Tiến sĩ Franz Morell và đã được mở rộng bởi công trình của bác sĩ LC Vincent và FA Popp, người đưa ra giả thuyết rằng ánh sáng có thể ảnh hưởng đến sự dao động điện từ, hoặc sóng của cơ thể và điều tiết các hoạt động của enzyme.
Phải mất khoảng 25 năm để Popp thu phục những người chống đối trong cộng đồng khoa học. Dần dần, có một vài nhà khoa học trên thế giới bắt đầu xem xét lại và cho rằng hệ thống thông tin liên lạc của cơ thể có thể là một mạng lưới phức tạp của các cộng hưởng và tần số. Cuối cùng, họ hình thành các Viện Quốc tế về Lý Sinh Học (Biophysics), bao gồm 15 nhóm các nhà khoa học từ các trung tâm quốc tế trên toàn thế giới.
Popp và các cộng sự mới của mình tiếp tục nghiên cứu phát ánh sáng từ nhiều sinh vật cùng loài, đầu tiên là một thử nghiệm với một loại bọ chét nước họ Daphnia. Những gì họ tìm thấy thật đáng kinh ngạc. Với một thiết bị nhân bội hạt quang, cho thấy bọ chét nước hút ánh sáng lẫn nhau. Popp đã thử các thí nghiệm tương tự trên các loài cá nhỏ và đã nhận được kết quả tương tự . Các thiết bị nhân bội hạt quang cho thấy hoa hướng dương giống như một máy hút bụi sinh học, nó di chuyển theo hướng của các photon phát ra từ mặt trời nhất. Thậm chí có loài vi khuẩn nuốt photon từ môi trường quanh chúng!
Cách thông tin liên lạc giữa các sinh vật
Do đó, Popp chợt nhận ra rằng những bức xạ còn có một mục đích bên ngoài cơ thể . Sóng cộng hưởng không chỉ được sử dụng để giao tiếp bên trong cơ thể, nhưng còn sử dụng để thông tin giữa những sinh vật. Hai sinh vật khỏe mạnh tham gia vào hiện tượng, mà ông gọi là “mút photon” (photo suckling), bằng cách trao đổi các hạt photon. Popp nhận ra rằng sự trao đổi này có thể mở khóa bí mật của một số câu hỏi hóc búa dai dẳng nhất trong thế giới động vật: làm thế nào các đàn cá hoặc các đàn chim tạo ra sự phối hợp nhóm một cách hoàn hảo và tức thời.
Sự phối hợp kỳ lạ của một đàn cá |
Sự phối hợp kỳ lạ của một đàn chim |
Nhiều thí nghiệm về khả năng dẫn đường của động vật chứng minh rằng nó không có gì liên hệ với sự quen đường, mùi hương hoặc thậm chí với điện từ trường của trái đất, mà chính là một số hình thức giao tiếp im lặng và vô hình, ngay cả khi các động vật cách nhau với hàng dặm khoảng cách.
Đối với con người, nếu chúng ta có thể hấp thu các photon của các sinh vật khác, chúng ta cũng có thể có thể sử dụng thông tin từ người khác để sửa ánh sáng của chúng ta nếu nó đã lệch lạc.
Sự Chết được truyền qua kênh "ánh sáng"huyền bí
Một số thí nghiệm vô cùng thú vị được thực hiện bởi VP Kaznacheyev và cộng sự liên quan đến việc cái chết có thể truyền đi bởi kênh ánh sáng huyền bí.
Có hai mẫu, gồm các tế bào được lấy từ cùng một môi trường nuôi dưỡng. Hai mẫu được đặt hai bên, ngăn cách nhau bằng một cửa sổ . Tất cả đều ở trong một phòng tối không có ánh sáng.
Các tế bào trong mẫu số (1) bị làm chết bởi các tác nhân như vi trùng, siêu vi trùng, độc tố, hóa, chất, tia xạ v.v..
Nếu cửa sổ được làm bằng thủy tinh thông thường, mẫu thứ hai (2) vẫn sống và khỏe mạnh. Nhưng nếu cửa sổ được làm bằng thạch anh, thì các tế bào của mẫu thứ hai bị bệnh và chết với các triệu chứng tương tự như các mẫu số (1).
Các tế bào trong mẫu số (1) bị làm chết bởi các tác nhân như vi trùng, siêu vi trùng, độc tố, hóa, chất, tia xạ v.v..
Nếu cửa sổ được làm bằng thủy tinh thông thường, mẫu thứ hai (2) vẫn sống và khỏe mạnh. Nhưng nếu cửa sổ được làm bằng thạch anh, thì các tế bào của mẫu thứ hai bị bệnh và chết với các triệu chứng tương tự như các mẫu số (1).
Sự khác biệt lớn giữa truyền kính cửa sổ bằng kính và cửa sổ bằng thạch anh là:
Chất liệu kính là tương đối mờ với tia cực tím và hồng ngoại. Trong khi thạch anh truyền cả tia cực tím và hồng ngoại tốt. Do đó kính là một chất kiềm chế của kênh huyền bí , trong khi thạch anh thì không.
Chất liệu kính là tương đối mờ với tia cực tím và hồng ngoại. Trong khi thạch anh truyền cả tia cực tím và hồng ngoại tốt. Do đó kính là một chất kiềm chế của kênh huyền bí , trong khi thạch anh thì không.
[V.P. Kaznacheyev et al, "Distant Intercellular Interactions in a System of Two Tissue Cultures," Psychoenergetic Systems, Vol. 1, No. 3, March 1976, pp 141-142]
Cây lá có khả năng trị liệu
Popp đã bắt đầu thử nghiệm với ý tưởng như vậy. Nếu hóa chất gây ung thư có thể làm thay đổi lượng bức xạ biophoton của cơ thể , thì có thể có các chất khác có thể mang lại thông tin liên lạc tốt hơn. Popp tự hỏi liệu có chiết xuất của cây lá nào đó có thể thay đổi tính chất của bức xạ biophoton từ tế bào ung thư, giúp cho chúng nối lại thông tin liên lạc với phần còn lại của cơ thể. Ông bắt đầu thử nghiệm với một số chất không độc hại, nhằm để điều trị ung thư hiệu quả. Trừ một trường hợp, còn lại tất cả các chất này chỉ làm tăng photons từ các tế bào khối u, thậm chí còn làm nguy hiểm hơn cho cơ thể.
Một thử nghiệm thành công duy nhất là với cây tầm gửi (sender mistletoe), cây này giúp cơ thể điều chỉnh bức xạ photon của các tế bào khối u trở lại bình thường. Một trong rất nhiều trường hợp của Popp, là một người phụ nữ vào tuổi ba mươi bị ung thứ vú và ung thư âm đạo. Popp đã thấy phương thuốc cây tầm gửi đã tạo ra sự hòa điệu photon trong các mẫu mô ung thư. Với sự đồng ý của bác sĩ trị liệu, người phụ nữ dừng mọi điều trị và chỉ sử dụng chiết xuất từ cây tầm gửi. Sau một năm, tất cả các xét nghiệm của cô hầu như trở lại bình thường.
Đối với Popp, phương pháp trị liệu “vi lượng đồng căn” (Homeopathy) là một ví dụ khác của hiện tượng “hút photon” (photon suckling). Ông đã bắt đầu nghĩ về nó như một “cộng hưởng hấp thụ” (resonance absorber). Homoeopathy dựa trên các quan điểm cho rằng cái giống nhau trị lành cái giống nhau. Một chiết xuất từ thực vật có sức mạnh để gây phát ban trong cơ thể, phải được pha rất loãng khi sử dụng để tránh tình trạng phát ban đó. Đối với một tần số gây hại trong cơ thể, cái có thể tạo ra các triệu chứng nhất định, thì dung dịch trị liệu phải được pha loãng, sao cho có thể tạo ra các triệu chứng tương để tạo ra cùng tần số đó. Giống như một âm thoa cộng hưởng, một giải pháp phù hợp homoeopathic có thể thu hút và sau đó hấp thụ các dao động bất thường, giúp cơ thể trở lại sức khỏe bình thường.
Popp nghĩ rằng tín hiệu điện từ của phân tử, thậm chí có thể giải thích được cách trị liệu bằng châm cứu. Theo Y học cổ truyền Trung Quốc, cơ thể con người có một hệ thống kinh tuyến chạy sâu trong các mô. Năng lực vô hình mà người Trung Quốc gọi là Khí hoặc lực lượng cuộc sống chạy qua hệ thống các kinh này. Các “Khí” được cho là đi vào cơ thể thông qua các điểm châm cứu và chảy vào các cấu trúc cơ quan sâu hơn (mà không tương ứng với những bộ phận trong sinh học phương Tây), để cung cấp năng lượng (hoặc lực lượng cuộc sống). Bệnh xảy ra khi năng lượng này bị chặn tại bất kỳ điểm nào dọc theo hệ kinh mạch. Theo Popp, hệ thống kinh tuyến truyền sóng năng lượng cụ thể cho từng khu vực cụ thể của cơ thể.
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng rất nhiều các điểm châm cứu có một điện trở giảm đáng kể so với vùng da xung quanh (khoảng 10 kg - ohms và 3 mega – ohms). Bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình Tiến sĩ Robert Becker, người đã thực hiện rất nhiều nghiên cứu về các lĩnh vực Điện Từ trong cơ thể, đã thiết kế một thiết bị ghi âm điện cực đặc biệt mà cuộn dọc theo cơ thể như một máy cắt bánh pizza. Nhiều nghiên cứu của Becker đã cho thấy lượng điện trên từng người, trong những người được kiểm tra, tương ứng với các điểm thuộc kinh mạch Trung Quốc .
[ Trích từ The Field : Các Quest cho các lực lượng bí mật của vũ trụ , bởi Lynne McTaggart ]
Ánh sáng có trong ý thức con người
Nghiên cứu mới nhất này cho những người muốn tìm hiểu về ranh giới giữa hai lãnh vực nghiên cứu và lý thuyết về photon. Trong một bài báo mang tính đột phá với tiêu đề dài "Điều phối sự sút giàm về mức hòa điệu lượng tử trong các vi ống của não bộ: Các ' Orch OR' mô hình cho ý thức", Stuart Hameroff và Roger Penrose, mô tả não như là một máy tính lượng tử có cấu trúc chính là các vi ống cytoskeletal và nhiều cấu trúc khác nữa trong mỗi tế bào thần kinh não bộ.
Nếu xem xét một tế bào thần kinh, bạn sẽ thấy rằng có rất nhiều ống rỗng xung quanh sợi trục. Các vi ống trước đây được coi là một loại giàn giáo để hỗ trợ các sợi thần kinh. Nhưng bây giờ, các vi ống này đang được nghi ngờ rằng chúng có thể là kiến trúc của ý thức của con người.
Các đặc tính đặc biệt của các vi ống làm cho chúng thích hợp với hiệu ứng lượng tử, bao gồm cấu trúc lưới giống dạng tinh thể, lõi bên trong rỗng, tổ chức các chức năng tế bào và có khả năng xử lý tiến trình thông tin. Theo các nhà nghiên cứu, kích thước của chúng có thiết kế hoàn hảo để truyền tải các photon trong khoảng phổ của tia cực tím.
[ Ảnh trên: ] Sơ đồ khu vực trung tâm của tế bào thần kinh (axon xa và các đuôi gai không được hiển thị) , cho thấy các vi ống dàn trải song song, kết nối với nhau bằng bản MAPs. Ống vi thể trong sợi trục có hình dài và liên tục, trong khi ở nhánh gai chúng bị gián đoạn và có phân cực hỗn hợp. Các protein liên kết giúp kết nối các vi ống đến màng protein bao gồm các thụ thể trên đuôi gai .
Thường được xem như là “bộ xương của tế bào”, các vi ống và các cấu trúc cytoskeletal khác đã xuất hiện để đảm nhiệm hết việc xử lý các quá trình giao tiếp và thông tin. Mô hình lý thuyết đã thử trình bày cách làm thế nào mà sự thay đổi hình dạng của các vi ống (tubulins) trong mạng vi ống lattices có thể tương tác với các vi ống lân cận để trình hiện, truyền đi và xử lý thông tin, như trong một hệ thống máy tính, có tính “tự động tế bào” ở cấp độ phân tử .
[Hameroff và Watt , 1982; Rasmussen và cộng sự, 1990; Hameroff và cộng sự , 1992]
Trong bài báo của họ, Hameroff và Penrose trình bày một mô hình liên kết giữa các vi ống với ý thức (consciousness) bằng cách vận dụng lý thuyết lượng tử. Theo mô hình của họ, sự hòa điệu lượng tử (quantum coherence) xuất hiện, rồi bị cô lập trong các vi ống ở não cho đến khi đạt tới một ngưỡng tương ứng với lực hấp dẫn lượng tử. Kết quả là một sự tự sụp đổ của hòa điệu lượng tử. Ngay lúc đó xảy ra một sự kiện gọi là "bây giờ". Trình tự của những sự kiện đó tạo ra một dòng chảy của thời gian, và ý thức.
Đừng lo lắng nếu bạn không thể hiểu được điều này. Vì thật sự rất nặng nề trong khi đọc tài liệu này. Nhưng nhờ ở tài liệu này, ta biết về sự tồn tại của các photon bên trong cơ thể. Ánh sáng bên trong là có thực và nó chính là cơ sở của hầu hết tất cả các chức năng của tế bào và của các hệ thống cơ thể của con người.
Phạm Doãn
Tổng hợp từ các tài liệu trên Internet
Phạm Doãn
Tổng hợp từ các tài liệu trên Internet
------------------------
Chú thích:
Bức xạ hay phát xạ, chiếu xạ là hiện tượng truyền băng lượng dưới dạng sóngHòa điệu photon: photon coherence
Hòa điệu lượng tử: quantum coherence
Chữ "hòa điệu" trong bài viết này được dịch từ chữ coherence.
Coherence là một thuật ngữ được dùng trong nhiều chuyên ngành chỉ sự hòa điệu, hòa hợp, kết dính.
Vài hình ảnh diễn tả ý nghĩa "hòa điệu" của các sóng, photon trong bài viết:
Fritz Albert Popp
Fritz Popp was born in 1938 in Frankfurt Germany .
- Experimental Physics (1966, University Würzburg)
- Röntgen-Prize of the University Würzburg,
- Ph.D. in Theoretical Physics (1969, University Mainz ).
- Biophysics and Medicine (1973, University Marburg ).
Prof. Popp rediscovered and made the first extensive physical analysis of "Biophotons". He was awarded Professorship (H2) by the Senate of Marburg University, and lectured at Marburg University from 1973 to 1980. He was Head of a research group in the Pharmaceutical Industry in Worms from 1981 to 1983 and Head of a research group at the Institute of Cell Biology (University Kaiserslautern) from 1983 to 1986 and of another research group at the Technology Center in Kaiserslautern .
Dr. Popp became an Invited Member of the New York Academy of Sciences and an Invited Foreign Member of the Russian Academy of Natural Sciences (RANS). Popp is the founder of the International Institute of Biophysics in Neuss (1996),
Biophoton
A biophoton is a photon of non-thermal origin in the visible and ultraviolet spectrum emitted from a biological system. Wikipedia
Fritz-Albert Popp is the inventor of biophoton theory, and has coined the term biophotons which refers to coherent photons emitted from biological organisms. biontologyarizona.com
Explore: Fritz-Albert Popp
. . . the tenacity of Anna Gurwitsch, together with the development of the photon counter multiplier, resulted in the confirmation of the phenomenon of biophotons in 1962. Wikipedia
Explore: Alexander Gurwitsch
Biophotons may be detected with photomultipliers or by means of an ultra low noise CCD camera to produce an image, using an exposure time of typically 15 minutes for plant materials. Wikipedia
Explore: Photomultiplier
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét